Bệnh nhân bị tác dụng phụ của xạ trị sọ não có thể phục hồi chức năng nhận thức thần kinh trong vòng vài tháng

Theo phân tích gộp của ba thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn III quy mô lớn, một số lượng lớn bệnh nhân bị di căn não gặp tác dụng phụ về nhận thức sau xạ trị có thể phục hồi hoàn toàn chức năng nhận thức.

Những người được điều trị bằng kỹ thuật xạ trị theo hình thái hoặc xạ trị có mục tiêu cao có nhiều khả năng phục hồi hơn so với phương pháp điều trị toàn não thông thường. Những phát hiện này đã được trình bày tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Xạ trị Ung thư Hoa Kỳ (ASTRO). "Chúng ta không nên coi rối loạn chức năng nhận thức là vấn đề vĩnh viễn đối với bệnh nhân nữa", Hua-Ren Ryan Cherng, tiến sĩ Y khoa, tác giả chính của nghiên cứu và là bác sĩ nội trú chuyên khoa xạ trị ung thư tại Trung tâm Y tế Đại học Maryland ở Baltimore cho biết. "Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện ra rằng dường như tác dụng phụ về nhận thức của xạ trị đối với những người bị di căn não có thể hồi phục hoàn toàn và bệnh nhân có thể duy trì quá trình phục hồi đó trong thời gian dài".

Theo ước tính, có khoảng 30% (~600.000 người mỗi năm) trong số tất cả những người mắc bệnh ung thư được chẩn đoán mắc di căn não tại một thời điểm nào đó trong quá trình mắc bệnh. Phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho di căn não hoặc ung thư đã di căn đến não thường bao gồm liệu pháp xạ trị toàn não (WBRT) hoặc các kỹ thuật xạ trị phù hợp khác, nhắm mục tiêu liều bức xạ chính xác hơn vào vị trí khối u và giảm thiểu tiếp xúc với mô não khỏe mạnh. Liệu pháp xạ trị não giúp ngăn ngừa ung thư lan rộng hơn bên trong não, nhưng bệnh nhân có thể gặp các tác dụng phụ về nhận thức, chẳng hạn như suy giảm chức năng điều hành, khả năng học tập và trí nhớ.

Hai loại xạ trị phù hợp và phổ biến nhất là phẫu thuật xạ trị định vị (SRS), yêu cầu số lần xạ trị ít hơn nhưng liều bức xạ cao hơn cho mỗi lần điều trị đến vị trí khối u và xạ trị toàn não (WBRT) tránh vùng hồi hải mã, giúp hạn chế tiếp xúc với bức xạ cho các phần não có thể góp phần gây ra các tác dụng phụ về nhận thức thần kinh có thể xảy ra sau khi điều trị. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng các kỹ thuật xạ trị phù hợp gây ra ít tác dụng phụ về nhận thức hơn so với WBRT truyền thống.

Những tiến bộ trong xạ trị, liệu pháp toàn thân và các phương pháp điều trị ung thư khác, cũng như kỹ thuật hình ảnh tốt hơn giúp phát hiện bệnh sớm hơn, kéo dài đáng kể thời gian sống sót cho nhiều người bị ung thư di căn lên não. Mặc dù tỷ lệ sống sót chung có sự thay đổi rất nhiều giữa các loại ung thư, nhưng một số bệnh nhân bị di căn não có thể sống thêm vài năm sau khi điều trị.

Tiến sĩ Cherng cho biết: "Trong suốt thập kỷ qua, chúng tôi đã tập trung vào các phương pháp tiếp cận để có thể làm giảm hoặc trì hoãn các tác dụng phụ về nhận thức của xạ trị sọ não. Chúng tôi có rất nhiều dữ liệu về sự khởi phát của những thay đổi về nhận thức, nhưng không có nhiều dữ liệu và không có thử nghiệm ngẫu nhiên nào xem xét đến việc những bệnh nhân này sẽ ra sao sau khi phát triển các tác dụng phụ về nhận thức. Điều vẫn chưa rõ ràng là kết quả lâu dài đối với những bệnh nhân này như nào. Liệu họ có thể phục hồi chức năng nhận thức hay điều này sẽ vĩnh viễn không thể phục hồi”. Ông cho biết, phục hồi nhận thức là "một khái niệm mới lạ chưa được định nghĩa đầy đủ" đối với những bệnh nhân này.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này đó, tiến sĩ Cherng và các đồng nghiệp đã tập hợp dữ liệu hồi cứu từ 288 bệnh nhân có dữ liệu kiểm tra nhận thức dài hạn đã tham gia vào ba thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn III, so sánh ngẫu nhiên WBRT với các loại bức xạ phù hợp khác nhau trong di căn não. Kết quả nhận thức là tiêu chí đánh giá chính của cả ba thử nghiệm. Hai trong số các thử nghiệm được thực hiện bởi Nhóm thử nghiệm ung thư khu vực N107C và N0574 và so sánh WBRT với SRS; thử nghiệm thứ ba, từ NRG Oncology (CC001), so sánh WBRT tiêu chuẩn với WBRT tránh vùng hồi hải mã. Để đo lường sự phục hồi nhận thức, các nhà nghiên cứu đã phân tích kết quả từ một loạt các bài kiểm tra nhận thức được thực hiện cho bệnh nhân trước khi điều trị và lần đo tiếp nữa là sau sáu và 12 tháng kể từ khi bắt đầu mất chức năng nhận thức thần kinh.

Sáu tháng sau những dấu hiệu đầu tiên của suy giảm nhận thức cho thấy, 38% bệnh nhân đã phục hồi nhận thức hoàn toàn, tăng lên 42% bệnh nhân sau một năm. Phục hồi nhận thức ở đây được định nghĩa là bệnh nhân không bị giảm đáng kể điểm nhận thức ban đầu trong mọi bài kiểm tra nhận thức.

Nói cách khác, tiến sĩ Cherng cho biết, bệnh nhân phải hoàn toàn không bị suy giảm nhận thức sau khi bị nhiễm độc thần kinh nhận thức ban đầu để đáp ứng các yêu cầu phục hồi nhận thức hoàn toàn. Và mặc dù không phải tất cả bệnh nhân đều phục hồi hoàn toàn, nhưng khoảng 3/4 đã phục hồi ít nhất một số chức năng nhận thức đã mất. Sáu tháng sau khi điều trị, 73% cho thấy sự cải thiện ở một hoặc nhiều bài kiểm tra nhận thức, tăng lên 76% sau 12 tháng. Trong số nhóm bệnh nhân tiếp tục kiểm tra nhận thức trong hai năm theo dõi (n=65), 2/3 cho thấy có sự phục hồi nhận thức bền vững. "Đó là một con số đáng kinh ngạc", tiến sĩ Cherng cho biết, ông nói thêm rằng những phát hiện này sẽ hữu ích trong việc tư vấn cho những bệnh nhân bị di căn não khi họ cân nhắc các lựa chọn điều trị. "Dữ liệu của chúng tôi cho thấy những tác dụng phụ này không nhất thiết là bị vĩnh viễn và có khả năng hồi phục. Chúng tôi đã có thể định nghĩa khái niệm mới này về sự phục hồi nhận thức và chúng tôi thấy rằng một bộ phận đáng kể bệnh nhân, sau khi trải qua các tác dụng phụ về nhận thức, thực sự đã khỏe hơn, thậm chí phục hồi hoàn toàn", ông nói.

Những bệnh nhân được điều trị bằng các kỹ thuật xạ trị phù hợp có nhiều khả năng phục hồi nhận thức hoàn toàn hơn đáng kể. Tỷ lệ tích lũy phục hồi nhận thức hoàn toàn cao hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng SRS so với WBRT (HR 2,68, p=0,002) và những bệnh nhân chỉ được điều trị bằng SRS so với SRS kết hợp với WBRT (HR 2,35, p=0,008). Và khả năng phục hồi nhận thức ở những người được điều trị bằng WBRT tránh vùng hồi hải mã cao hơn so với những người chỉ được WBRT (HR 1,57, p = 0,059).

Như vậy, những kỹ thuật này không chỉ giúp trì hoãn sự khởi phát của những thay đổi về nhận thức mà sau khi điều trị, các kỹ thuật phù hợp còn mang lại tỷ lệ phục hồi nhận thức cao hơn.

P.T.T (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/ 102024

Tác giả bài viết: PTT