Nghiên cứu về đại dịch Covid-19 và phương án phòng chống đặc thù
- Thứ tư - 04/05/2022 01:01
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Công trình của TS.BS Phạm Quang Thái đưa ra sớm nhất thông tin dịch bệnh, bằng chứng lây nhiễm góp phần điều chỉnh chiến lược phòng chống Covid-19 tại Việt Nam. Nghiên cứu này vừa được đề cử xét Giải chính - giải thưởng Tạ Quang Bửu 2022.
Khi thế giới còn chưa hiểu nhiều về chủng virus corona mới gây ra dịch Covid-19, TS.BS Phạm Quang Thái, Phó trưởng khoa kiểm soát bệnh truyền nhiễm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cùng các cộng sự đã đưa ra những bằng chứng quan trọng về việc virus dễ dàng lây lan từ người sang người và ở giai đoạn sớm, chưa biểu hiện triệu chứng. Thời điểm đó, ngoài một vài bài báo của Trung Quốc nơi phát hiện những ca bệnh đầu tiên, chưa có một quốc gia nào đưa ra bức tranh đầy đủ về đại dịch cũng như phương án phòng chống đặc thù như vậy.
Nghiên cứu nhìn lại kết quả 100 ngày đầu tiên kiểm soát dịch Covid-19 tại Việt Nam, trong đó phân tích các yếu tố liên quan và đưa ra bài học kinh nghiệm trong chống dịch. Nhóm đã phân tích dữ liệu lâm sàng và nhân khẩu học về 270 ca nhiễm đầu tiên, cũng như biện pháp kiểm soát của chính phủ, bao gồm số lượng các xét nghiệm, các trường hợp bị cách ly. Để ước lượng mức độ di chuyển của dân số, nhóm sử dụng dữ liệu di động của Apple và Google cung cấp. Họ cũng sử dụng dữ liệu để ước tính tỷ lệ của ca nhiễm không triệu chứng, mức độ lan truyền và ước tính các giá trị khác nhau của số phát sinh dịch (R0). Những kết quả này có ý nghĩa lớn cho ước tính chu kỳ lây cũng như quy mô của dịch sau này. Nhờ đó quy mô dịch tại Đà Nẵng ở làn sóng thứ 2 Covid-19 tại Việt Nam cũng như tại Hải Dương đầu năm 2021 ước tính được mức độ và phạm vi lây nhiễm.
Tác giả cũng đưa ra những bằng chứng quan trọng trong việc kết luận bệnh có thể lây truyền từ những cá thể nhiễm bệnh nhưng không có biểu hiện triệu chứng. Thời kì đầu đại dịch, người ta chỉ nghĩ rằng bệnh lây truyền từ động vật sang người và lây truyền ở người có triệu chứng. Song với kinh nghiệm từng trực tiếp tham gia chống dịch SARS năm 2003, tác giả đã nhanh chóng so sánh hai loại virus này. Khi dịch SARS xuất hiện, con đường lây nhiễm chủ yếu qua giọt bắn, điều hòa không gian kín với tỷ lệ tử vong cao tới 20%. Loại virus có mức độ tử vong cao và triệu chứng rõ ràng, SARS không thể gây ra đại dịch. Nhưng SARS-CoV-2 lại khác. Ở thời điểm WHO vẫn chậm trễ trong việc đưa ra cách thức lây truyền virus, thông điệp ấy đã làm thay đổi quan điểm của giới khoa học cũng như công tác cách ly khống chế dịch. Hiểu biết về cách lây truyền và bản chất của virus góp phần quan trọng cho khoa học bởi nếu không biết khả năng lây nhiễm sẽ không thể đưa chiến lược ứng phó.
Công trình lập tức gây chú ý khi đăng tải trên tạp chí hàng đầu về bệnh truyền nhiễm Clinical Infectious Diseases (Mỹ). Nghiên cứu cũng được trích dẫn 66 lần ở các bài báo đăng trên tạp chí khoa học và được nhắc lại trên các kênh truyền thông quốc tế như CNN, BBC, The Washington Post... như một thành công của chiến lược chống dịch tại Việt Nam. Thời điểm ấy, phát hiện của nhóm nghiên cứu đã góp phần lớn vào công tác phòng chống dịch như thay đổi chiến lược sàng lọc tại sân bay: kiểm soát người di chuyển qua đường hàng không, biên giới, cách ly cẩn trọng, xét nghiệm thay vì chỉ đo thân nhiệt. Nhờ công tác truy vết kỹ càng kết hợp với kiểm dịch nghiêm ngặt và các biện pháp hạn chế đi lại quốc tế giúp Việt Nam khống chế dịch an toàn trong một năm đầu tiên, trước khi có sự xuất hiện của chủng Delta và tiếp cận được vaccine.
Thời gian tới, nhóm tiếp tục nghiên cứu các biện pháp để thích ứng an toàn, dự phòng cũng như ngăn chặn nguy cơ tiềm ẩn dịch bệnh trong tương lai.
P.A.T (Tổng hợp)