Hợp tác giữa Lào với các nước Tiểu vùng Mekong: Thực trạng và Những vấn đề đặt ra

Với chiều dài hơn 4.800 km, sông Mekong là con sông dài nhất ở khu vực Đông Nam Á và là con sông lớn thứ 12 trên thế giới. Khu vực Tiểu vùng Mekong bao gồm 5 nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Tiểu vùng Mekong về cơ bản là một khu vực kinh tế tự nhiên gắn kết với nhau bởi dòng sông Mekong, có những điểm chung về lịch sử và văn hóa

Nghiên cứu trường hợp Lào hợp tác với các nước Tiểu vùng Mekong cũng là cơ hội tham khảo cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay vì Lào và Việt Nam có quan hệ láng giềng đặc biệt, đều là thành viên của Tiểu vùng, cùng tham gia các cơ chế hợp tác của Tiểu vùng và có nhiều nét tương đồng về chính trị và kinh tế cũng như trình độ phát triển. Đó là lý do nhóm nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á do  TS. Nguyễn Ngọc Lan dẫn đầu, đã thực hiện đề tài “Hợp tác giữa Lào với các nước Tiểu vùng Mekong: Thực trạng và Những vấn đề đặt ra”.

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, đánh giá thực trạng hợp tác giữa Lào với các nước Tiểu vùng sông Mekong, nhận diện những vấn đề còn tồn tại, qua đó hàm ý chính sách cho Việt Nam trong quá trình hợp tác với Lào và các nước Tiểu vùng Mekong.

Một số kết quả nổi bật của đề tài nghiên cứu:

Là một nước thành viên của Tiểu vùng Mekong, ngay từ khi hình thành các khuôn khổ và cơ chế hợp tác, Lào đã rất tích cực tham gia trên mọi lĩnh vực, từ kết nối giao thông, cơ sở hạ tầng, đến hợp tác kinh tế, văn hóa –xã hội, hợp tác phát triển nguồn nhân lực hay các vấn đề an ninh phi truyền thống. Với lợi thế địa chính trị quan trọng, được dòng sông Mekong bao trọn nhiều diện tích lãnh thổ quốc gia, cộng với tiềm năng và nỗ lực của mình, Lào đã thu được nhiều lợi ích từ hoạt động hợp tác trong Tiểu vùng. Trao đổi thương mại với các nước trong khu vực không ngừng tăng lên; hệ thống giao thông vận tải được nâng cấp, góp phần phát triển kinh tế và thông thương quốc tế; tỷ lệ nghèo đói giảm dần; nguồn nhân lực được thúc đẩy; đời sống người dân được cải thiện. Mặt khác, tham gia hợp tác trong khuôn khổ Tiểu vùng Mekong, Lào cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định, hòa bình trong khu vực; kết nối các nước thành viên lại thành một thể thống nhất cùng phát triển; góp phần củng cố và phát triển kinh tế, xã hội của toàn khu vực Tiểu vùng.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, hợp tác giữa Lào với các nước Tiểu vùng Mekong cũng bộc lộ nhiều vấn đề đáng quan tâm. Đó là vấn đề bảo vệ nguồn nước sông Mekong liên quan đến việc xây dựng và phát triển hệ thống nhà máy thủy điện; vấn đề phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn của nước ngoài (đặc biệt là Trung Quốc) khiến mất tính chủ động trong hợp tác; vấn đề tìm nguồn năng lượng thay thế thủy điện; vấn đề phát triển nguồn nhân lực, v.v... Do tiềm lực kinh tế của Lào còn yếu kém, quy mô dân số ít, mức độ hội nhập khu vực và quốc tế chưa cao nên đã ảnh hưởng đến quá trình hợp tác của Lào với các nước trong Tiểu vùng Mekong nói riêng và hợp tác với khu vực và quốc tế nói chung. Lào cần phát huy hơn nữa lợi thế địa chính trị, quan hệ gắn bó lâu đời với các nước láng giềng, cải cách kinh tế, thể chế và mở rộng quan hệ đối ngoại, v.v... Điều này đòi hỏi nỗ lực rất lớn và không thể một sớm một chiều trong bối cảnh nền kinh tế Lào đang hết sức khó khăn, cộng với các yếu tố bên ngoài như đại dịch COVID 19, biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế toàn cầu...

Việt Nam giống như Lào cùng tham gia hợp tác trong khuôn khổ Tiểu vùng Mekong ngay từ ban đầu. Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng trong các chương trình hợp tác của khu vực. Từ bài học của Lào trong hợp tác với Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), Việt Nam cũng tham khảo được nhiều kinh nghiệm quý báu. Là nước hạ nguồn Mekong, việc Lào gia tăng xây dựng các đập thủy điện đã ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam cũng như hoạt động hợp tác của toàn khu vực. Nhằm củng cố và thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Tiểu vùng Mekong nói chung, quan hệ Việt Nam - Lào nói riêng, Việt Nam cần tận dụng vị thế của mình tiếp tục chủ động đưa ra các sáng kiến hợp tác mới, có chiến lược tổng thể tham gia các cơ chế hợp tác của khu vực. Đối với các vấn đề nhạy cảm và mang tính sống còn như an ninh nguồn nước sông Mekong, Việt Nam cần kiên trì vận động, đấu tranh, đồng thời có cách xử lý khéo léo, linh hoạt trong từng khuôn khổ hợp tác

Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18392/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.

N.P.D (NASATI)