Liệu pháp dược chất phóng xạ mang lại triển vọng cho những người mắc khối u não màng não khó điều trị
Cập nhật vào: Thứ năm - 17/10/2024 00:10 Cỡ chữ
Liệu pháp dược chất phóng xạ (thuốc phóng xạ) thành công trong việc kéo dài thời gian sống sót không tiến triển cho những bệnh nhân có khối u thần kinh nội tiết, cho thấy hứa hẹn sớm mang lại lợi ích tương tự cho những bệnh nhân mắc u màng não khó điều trị.
Thời gian sống sót không tiến triển (PFS) là khoảng thời gian tính từ sau khi điều trị, tình trạng bệnh diễn tiến ổn định, chất lượng cuộc sống của người bệnh được duy trì, cho đến khi bệnh có biểu hiện tiến triển xấu (hoá ác) được xác định khách quan.
"Chúng tôi đã tìm ra một liệu pháp có ý nghĩa về hiệu quả và độ an toàn cho những người mắc bệnh u màng não kháng thuốc, một tình trạng hiện không có phương pháp điều trị chuẩn nào", tiến sĩ Kenneth W. Merrell, nhà nghiên cứu chính (PI) của thử nghiệm và là bác sĩ chuyên khoa ung thư xạ trị tại Trường Đại học Y Alix thuộc Mayo Clinic ở Rochester, Minn, cho biết. "Gần 80% bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi sống sót không tiến triển sau sáu tháng. Tỷ lệ này vượt xa chuẩn mực từ các nghiên cứu trước đây, cho thấy dược chất phóng xạ là tác nhân điều trị đầy hứa hẹn cho những bệnh nhân này".
U màng não là khối u phát triển trong mô liên kết bao quanh não và tủy sống. Đây là loại u não nguyên phát phổ biến nhất và mặc dù chúng thường không di căn sang các bộ phận khác của cơ thể, nhưng chúng có thể phát triển không kiểm soát được và dẫn đến chèn ép dây thần kinh và não gây tàn tật và tử vong.
Phương pháp điều trị chuẩn cho bệnh nhân mắc bệnh u màng não là phẫu thuật cắt bỏ hoặc xạ trị chùm tia ngoài khi khối u phát triển ở những vùng mà nếu phẫu thuật sẽ rất nguy hiểm, chẳng hạn như gần thân não hoặc tủy sống. Nhưng đối với một số bệnh nhân mà khối u vẫn phát triển mặc dù đã áp dụng các phương pháp điều trị này, được gọi là u màng não kháng trị, thì khối u có xu hướng hoạt động hung hãn hơn và việc điều trị lại rất khó khăn vì xạ trị và phẫu thuật không thể lặp lại thường xuyên, gây ra nhiều rủi ro hơn.
"Không có tiêu chuẩn chăm sóc y tế hoặc phương án nào đã được chứng minh có thể kiểm soát u màng não kháng trị. Nhiều bệnh nhân trong số này vẫn tiếp tục gặp phải tình trạng khối u phát triển hung hãn và có các biến chứng liên quan đáng kể, và cuối cùng căn bệnh này có thể gây tử vong. Đây là một tiên lượng rất khó kiểm soát và trong nhiều trường hợp, các bác sĩ chỉ áp dụng các biện pháp hỗ trợ là chính", tiến sĩ Merrell cho biết.
Tiến sĩ Merrell và các đồng nghiệp đã xem xét liệu những bệnh nhân mắc u màng não kháng trị có được hưởng lợi từ phương pháp xạ trị liệu này hay không, trong đó kết hợp liệu pháp với chẩn đoán để tạo ra phương pháp xạ trị nội bộ được cá nhân hóa.
Phương pháp xạ trị này liệu có thể tận dụng dược chất phóng xạ-thuốc chuyên khoa có chứa vật liệu phóng xạ-để tìm kiếm tế bào ung thư trong cơ thể và tấn công chúng bằng liều lượng bức xạ chính xác mà không gây hại cho các mô khỏe mạnh xung quanh. Phương pháp tiếp cận hai hướng này cung cấp cho bệnh nhân một phương án điều trị phù hợp hơn và có thể mang lại hiệu quả hơn.
Mặc dù vẫn là phương thức điều trị mới nổi, nhưng dược chất phóng xạ thường đã được sử dụng để điều trị ung thư tuyến giáp, ung thư di căn như là di căn xương từ ung thư tuyến tiền liệt và các loại khối u khác. Đối với thử nghiệm này, các nhà nghiên cứu đã xem xét cụ thể thuốc 177Lu-Dotatate, một dược phẩm phóng xạ được FDA chấp thuận điều trị cho các khối u thần kinh nội tiết, có điểm tương đồng về mặt sinh học với u màng não.
"Đã có nhiều nỗ lực trong thử nghiệm nhiều loại hóa trị liệu và các tác nhân toàn thân khác cho những bệnh nhân này. Và nhiều người khác cũng đã xem xét phương án này để điều trị nhưng chưa ai hoàn thành thử nghiệm triển vọng cho nhóm bệnh nhân này trước chúng tôi", Geoffrey B. Johnson, MD, Ph.D., đồng PI của thử nghiệm và là bác sĩ y học hạt nhân tại Mayo Clinic cho biết. "Với hình ảnh PET tiên tiến, nó sẽ giúp chúng tôi lựa chọn ra được những bệnh nhân có nhiều khả năng được hưởng lợi từ bức xạ nhắm mục tiêu phân tử trực tiếp đến các tế bào khối u của họ".
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II tại một trung tâm học thuật lớn, tuyển chọn những bệnh nhân mắc bệnh u màng não kháng trị đã phát triển với tốc độ 15% trở lên trong khoảng thời gian sáu tháng. Trong khoảng thời gian ba năm bắt đầu từ tháng 4 năm 2020, những bệnh nhân này bao gồm 20 người mắc bệnh cấp độ 2 hoặc 3 theo WHO đã được tuyển chọn vào nghiên cứu. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 67 và hầu hết (95%) đều mắc bệnh u màng não cấp độ 2. Những người tham gia thử nghiệm đã được truyền bốn lần 177Lu-Dotatate cách nhau tám tuần.
Sáu tháng sau khi điều trị, 78% bệnh nhân không bị khối u tiến triển thêm, vượt xa tỷ lệ sống sót không tiến triển chuẩn là 26% được thiết lập bởi nghiên cứu trước đó. Thời gian trung bình trước bệnh ung thư của bệnh nhân tiến triển là 11,5 tháng. Sau một năm, tỷ lệ sống sót chung là 88,9%. Không có bệnh nhân nào gặp phải tác dụng phụ đe dọa tính mạng, trong khi đó 10 bệnh nhân bị số lượng tế bào máu thấp nghiêm trọng, một bệnh nhân bị viêm gan cấp độ 3 và một bệnh nhân bị co giật cấp độ 3 có thể liên quan đến điều trị. 5 bệnh nhân không hoàn thành quá trình điều trị do khối u tiến triển (n=2), các tác dụng phụ có thể liên quan đến quá trình điều trị (n=2) hoặc các bệnh đi kèm khác (n-1).
"Hầu hết bệnh nhân đều dung nạp tốt phương pháp điều trị", Tiến sĩ Merrell cho biết. "Có vẻ như 177Lu-Dotatate là lựa chọn điều trị an toàn và hợp lý với đủ điều kiện rộng rãi cho những bệnh nhân bị u màng não phát triển mạnh, đặc biệt là khi các lựa chọn điều trị thay thế có nhiều hạn chế". "Vì hiện tại không có tiêu chuẩn chăm sóc nào dành cho những bệnh nhân này, nên những phát hiện của chúng tôi thiết lập một chuẩn mực mới và có thể ảnh hưởng đến các lựa chọn điều trị có sẵn", ông nói.
P.T.T (NASATI), theo https://medicalxpress.com/, 10/2024