Việt Nam trước cơ hội bứt phá trong nuôi trồng thủy sản biển
Cập nhật vào: Thứ ba - 04/11/2025 00:02
Cỡ chữ
Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài, với vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn và hệ sinh thái biển đa dạng, tạo nên tiềm năng to lớn cho phát triển nuôi trồng thủy sản biển. Tuy nhiên, ngành kinh tế này vẫn chưa phát triển tương xứng với lợi thế tự nhiên vốn có. Một trong những nguyên nhân chính là việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất còn chậm, thiếu định hướng tổng thể và chưa hình thành chuỗi giá trị bền vững. Trong bối cảnh kinh tế biển đang được xem là trụ cột quan trọng, việc đổi mới tư duy, đầu tư công nghệ và tổ chức lại sản xuất là yêu cầu cấp thiết để nghề nuôi biển Việt Nam có thể vươn lên tầm cao mới.
Theo Quyết định số 1664/QĐ-TTg ngày 4/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu: đạt 300.000 ha diện tích nuôi, 12 triệu mét khối lồng nuôi và sản lượng 1,45 triệu tấn. Đề án hướng tới xây dựng nghề nuôi biển thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại, an toàn và bền vững; tạo ra sản phẩm mang thương hiệu quốc gia, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống ngư dân ven biển. Đây là định hướng đúng đắn, song để hiện thực hóa, đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ hơn về công nghệ, quy hoạch không gian biển và nguồn nhân lực.
Hiện nay, cả nước có gần 10.000 cơ sở nuôi biển, phần lớn tập trung ở vùng ven bờ dưới ba hải lý, với các đối tượng nuôi chủ yếu là cá, tôm, nhuyễn thể. Tuy nhiên, công nghệ nuôi vẫn chủ yếu là thủ công, lạc hậu, chưa ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật mới. Điều này khiến năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm chưa cao. Dù vậy, Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất giống một số loài thủy hải sản có giá trị, đồng thời thử nghiệm thành công một số mô hình tiên tiến như hệ thống nuôi tuần hoàn nước (RAS), mô hình nuôi trồng đa dinh dưỡng tích hợp (IMTA), hay lồng nuôi HDPE chống chịu sóng gió. Những mô hình này mở ra hướng phát triển mới cho ngành nuôi biển công nghiệp, hiện đại và thân thiện với môi trường.
Đáng chú ý, một số doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn triển khai các dự án nuôi biển xa bờ, vượt ngoài ba hải lý và bước đầu thu được kết quả khả quan. Đây được xem là xu hướng tất yếu khi quỹ đất ven bờ ngày càng hạn chế và môi trường dễ bị tác động. Các mô hình này cho thấy khả năng mở rộng quy mô và hiệu quả sản xuất cao, hướng tới mục tiêu đưa kim ngạch xuất khẩu nuôi biển đạt 2 tỷ USD vào năm 2030. Tuy nhiên, sự manh mún trong quy hoạch và thiếu liên kết giữa các cá nhân, tổ chức vẫn là “nút thắt” lớn cản trở phát triển bền vững. Ví dụ tại Quảng Ninh, mặc dù đã quy hoạch hơn 45.000 ha nuôi biển, song diện tích thực tế giao cho các tổ chức, doanh nghiệp mới chiếm tỷ lệ nhỏ, còn phần lớn được chia nhỏ cho hàng trăm cá nhân, khiến việc quản lý, đầu tư công nghệ và xây dựng chuỗi giá trị gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, các quốc gia có ngành nuôi biển phát triển như Na Uy, Chile, Nhật Bản hay Trung Quốc đều dựa trên nền tảng công nghệ cao và quy mô công nghiệp. Họ sử dụng hệ thống lồng nuôi biển sâu, thiết kế chịu được bão lớn; áp dụng hệ thống nuôi bán kín (SCCS) thân thiện môi trường; triển khai trang trại thông minh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), robot và thiết bị tự hành để giám sát, cho ăn, thu hoạch tự động. Mô hình nuôi biển hiện đại này không chỉ nâng cao năng suất, giảm chi phí mà còn bảo đảm an toàn sinh thái và chất lượng sản phẩm, đồng thời tạo ra hệ sinh thái kinh tế phụ trợ khép kín trong chuỗi giá trị thủy sản biển.
Theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, vùng biển Việt Nam rất thích hợp để áp dụng công nghệ IMTA - mô hình nuôi trồng đa loài trong cùng hệ sinh thái, tận dụng mối quan hệ tương hỗ giữa các sinh vật. Mô hình này giúp giảm chi phí thức ăn, tận dụng phế phẩm, hạn chế ô nhiễm môi trường và nâng cao hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, việc ứng dụng năng lượng tái tạo biển như điện gió, điện mặt trời nổi kết hợp với hạ tầng nuôi trồng là giải pháp khả thi, bảo đảm nguồn năng lượng xanh cho các trang trại xa bờ. Ngoài ra, việc ứng dụng blockchain trong truy xuất nguồn gốc, công nghệ sinh học trong chế biến và thức ăn bền vững cũng là xu hướng quan trọng giúp ngành nuôi biển Việt Nam bắt kịp thế giới.
Dù tiềm năng lớn, nhưng nghề nuôi biển nước ta hiện vẫn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch đồng bộ và chưa có cơ chế khuyến khích đổi mới công nghệ mạnh mẽ. Người nuôi còn hạn chế về trình độ kỹ thuật, trong khi cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần và chính sách hỗ trợ chưa tương xứng. Nếu không có chiến lược phát triển sâu rộng, nghề nuôi biển khó có thể trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đây là cảnh báo được nhiều chuyên gia, trong đó có Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam - nhiều lần nhấn mạnh.
Theo ông Dũng, để ngành nuôi biển bứt phá, cần sớm quy hoạch không gian biển, đặc biệt là vùng xa bờ, cho phát triển nghề nuôi theo hướng công nghiệp và tập trung. Đồng thời, Nhà nước cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong sản xuất, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư lâu dài; khuyến khích mô hình hợp tác xã, liên kết chuỗi giá trị giữa ngư dân - doanh nghiệp - nhà khoa học; phát triển đồng bộ các ngành kinh tế phụ trợ như chế biến, logistics, dịch vụ bảo hiểm và tín dụng xanh.
Nếu thực hiện hiệu quả những định hướng này, kết hợp với lợi thế tự nhiên và sự năng động của cộng đồng ngư dân, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trong những trung tâm nuôi trồng thủy sản biển hiện đại của khu vực Đông Nam Á. Nghề nuôi biển không chỉ góp phần bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế xanh, bền vững, gắn với bảo tồn hệ sinh thái biển và sinh kế lâu dài cho hàng triệu người dân vùng ven biển.
P.T (tổng hợp)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








