Chế độ ăn lành mạnh ở trẻ em giúp trì hoãn tuổi dậy thì ở bé gái, độc lập với chỉ số BMI và chiều cao
Cập nhật vào: Thứ ba - 03/06/2025 13:06
Cỡ chữ
Một nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Human Reproduction cho thấy, chế độ ăn uống lành mạnh trong thời thơ ấu có liên quan đến việc bé gái bắt đầu kỳ kinh nguyệt đầu tiên muộn hơn, bất kể chỉ số khối cơ thể (BMI) hay chiều cao. Kết quả này gợi mở những ảnh hưởng quan trọng đến sức khỏe lâu dài, khi tuổi dậy thì sớm ở nữ giới đã được chứng minh có liên quan đến nguy cơ cao hơn mắc các bệnh như tiểu đường, béo phì, ung thư vú và bệnh tim mạch.
Nghiên cứu do Phó Giáo sư Holly Harris tại Trung tâm Ung thư Fred Hutchinson (Mỹ) đứng đầu, sử dụng dữ liệu từ hơn 7.500 trẻ em gái trong độ tuổi 9-14, tham gia nghiên cứu "Growing Up Today Study" (GUTS) qua hai giai đoạn vào năm 1996 và 2004. Các em được theo dõi liên tục cho đến năm 2001 và 2008.
Lần đầu tiên, các nhà khoa học phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn cụ thể và độ tuổi bắt đầu kỳ kinh đầu tiên, đồng thời kiểm tra xem BMI có ảnh hưởng đến mối liên hệ này hay không. Trong các nghiên cứu trước đây, BMI thường được xem là yếu tố nhiễu chứ không được đánh giá như một biến tương tác.
Theo giáo sư Harris, kết quả này xuất phát từ mối quan tâm trước đó của nhóm nghiên cứu về mối liên hệ giữa chế độ ăn gây viêm trong giai đoạn thanh thiếu niên với nguy cơ ung thư vú. Do tuổi dậy thì sớm là một trong những yếu tố nguy cơ của ung thư vú, nhóm đã chuyển hướng nghiên cứu sang tìm hiểu ảnh hưởng của dinh dưỡng thời thơ ấu đến độ tuổi bắt đầu có kinh nguyệt.
Trước khi có kinh nguyệt, các bé gái đã điền vào bảng câu hỏi về chế độ ăn uống và cập nhật thông tin này mỗi một đến ba năm. Thời điểm bắt đầu có kinh cũng được báo cáo. Nhóm nghiên cứu đánh giá chất lượng chế độ ăn theo hai thang điểm: Alternative Healthy Eating Index (AHEI) và Empirical Dietary Inflammatory Pattern (EDIP).
AHEI là bộ chỉ số chuyên dùng để đánh giá thức ăn và chế độ ăn uống, đồng thời tập trung vào việc giảm nguy cơ mắc bệnh mãn tính của Đại học Harvard.
EDIP: Mẫu hình viêm theo chế độ ăn uống thực nghiệm
AHEI đánh giá cao các thực phẩm lành mạnh như rau củ, đậu và ngũ cốc nguyên hạt, trong khi thực phẩm chế biến, thịt đỏ, chất béo trans và muối nhận điểm thấp. Ngược lại, EDIP phản ánh mức độ gây viêm của chế độ ăn, trong đó thịt chế biến, nội tạng động vật, ngũ cốc tinh luyện và đồ uống có đường là những thực phẩm làm tăng điểm số viêm.
Phân tích dữ liệu từ 6.992 bé gái cho thấy, nhóm 20% có điểm AHEI cao nhất (ăn uống lành mạnh nhất) có khả năng bắt đầu kỳ kinh đầu tiên trong tháng tiếp theo thấp hơn 8% so với nhóm có điểm thấp nhất. Trong khi đó, nhóm có điểm EDIP cao nhất (chế độ ăn gây viêm nhiều nhất) lại có nguy cơ bắt đầu kỳ kinh trong tháng tiếp theo cao hơn 15% so với nhóm có điểm thấp nhất.
Giáo sư Harris nhấn mạnh: “Chúng tôi nhận thấy rằng các mô hình ăn uống này có liên hệ với độ tuổi dậy thì, và điều quan trọng là các kết quả này độc lập với BMI và chiều cao. Vì dậy thì sớm liên quan đến nhiều hậu quả sức khỏe về sau, đây là giai đoạn quan trọng để can thiệp, góp phần phòng ngừa bệnh mạn tính”.
Tuy nghiên cứu có nhiều điểm mạnh như thu thập dữ liệu theo thời gian và kiểm soát ảnh hưởng của BMI và chiều cao, vẫn tồn tại một số hạn chế. Các dữ liệu chủ yếu dựa trên tự báo cáo, chưa đo được lượng mỡ cơ thể một cách trực tiếp, và nhóm tham gia nghiên cứu phần lớn là người da trắng, chưa phản ánh được sự khác biệt chủng tộc.
Nhóm nghiên cứu dự định sẽ tiếp tục đánh giá mối liên hệ giữa thói quen ăn uống và kích thước cơ thể trong giai đoạn thơ ấu với đặc điểm chu kỳ kinh nguyệt ở tuổi trưởng thành, từ đó góp phần làm sáng tỏ thêm tác động dài hạn của chế độ ăn thời niên thiếu đối với sức khỏe sinh sản và chuyển hóa.
Đ.T.V (NASTIS), theo https://medicalxpress.com/news/, 2025