Xây dựng và áp dụng thử nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh ở Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ hai - 16/08/2021 01:25
Cỡ chữ
Ở nước ta, mặc dù vấn đề đô thị hoá và phát triển đô thị theo hướng bền vững đã và đang được đặt ra một các nghiêm túc, song việc hiện thực hoá khái niệm này còn mới ở giai đoạn ban đầu. Chính phủ Việt Nam đã thông qua một loạt các chiến lược, chính sách, chương trình hành động liên quan đến việc thúc đầy phát triển đô thị xanh và bền vững (Chính phủ Việt Nam, 2012a, 2012b).
Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng Xanh (2012a) đã đặt ra những chỉ tiêu chủ yếu rất cụ thể cho việc phát triển đô thị theo hướng xanh và bền vững đến năm 2020 như 60% đô thị loại III và 40% đô thị loại IV, loại V có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định; tỷ lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg (Chính phủ, 2009), diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45% và 50%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh. Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012 - 2020 đã nhấn mạnh việc phát triển đô thị “hướng tới nền kinh tế xanh, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương,vùng và cả nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa” đồng thời đặt ra nhiệm vụ “nghiên cứu phát triển đô thị xanh đảm bảo đô thị hóa nhanh, bền vững”, ban hành bộ chỉ số cạnh tranh đô thị (Chính phủ Việt Nam, 2012). Tuy nhiên việc thực hiện các chương trình này còn gặp nhiều khó khăn và việc triển khai chưa được nhiều. Khái niệm “đô thị xanh” còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, phần lớn theo nghĩa hẹp chỉ trong phạm vi không gian, cảnh quan xanh, chưa thực sự gắn với quan điểm phát triển bền vững và tăng trưởng xanh (Lê Thị Bích Thuận, 2016; Trương Văn Quảng, 2013). Có ý kiến còn cho rằng chỉ tập trung phát triển đô thị xanh với các đô thị loại III trở xuống (Lê Thị Bích Thuận, 2016). Ngay cả Báo cáo Việt nam 2035 được công bố mới đây giữa Ngân hàng thế giới (NHTG) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Ngân hàng thế giới, 2016), phần nói về những thách thức của đô thị hoá vẫn khá nặng về những vấn đề kỹ thuật, liên kết hạ tầng, quản lý đất đai mà ít đề cập đến các khía cạnh phát triển bền vững của đô thị hiện đại (Ngân hàng Thế giới, 2016).
Việc nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm bộ chỉ số phát triển đô thị xanh,do vậy có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Trước hết, nghiên cứu này sẽ góp phần làm rõ bản thân khái niệm đô thị xanh gắn với quan điểm phát triển đô thị bền vững và tăng trưởng xanh. Nghiên cứu cũng sẽ có đóng góp trong việc góp phần thúc đẩy quá trình thực hiện Chương trình phát triển đô thị ở các cấp trung ương và địa phương. Bộ chỉ số đô thị xanh sẽ góp phần trong việc nâng cao chất lượng quản lý, giám sát thực hiện các kế hoạch phát triển đô thị trong bối cảnh mới, đặc biệt là với những thách thức của quá trình đô thị hóa gia tăng và những tác động của biến đổi khí hậu và chuyển dịch kinh tế- xã hội.
Đề tài sẽ tiến hành thử nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh cho một thành phố để rút ra các bài học về khả năng áp dụng bộ chỉ số đô thị xanh đối với điều kiện nước ta, đồng thời rút ra một số kết luận về các điều kiện xây dựng và nhân rộng bộ chỉ số này trong tương lai, cũng như khả năng sử dụng bộ chỉ số đô thị xanh như là một công cụ trong quá trình hoạt định, thực thi, giám sát các chiến lược, kế hoạch phát triển đô thị theo hướng bền vững trong tương lai. Nhóm nghiên cứu do Chủ nhiệm đề tài TS. Vũ Quốc Huy cùng phối hợp với Cơ quan chủ trì là Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng thực hiện đề tài “Xây dựng và áp dụng thử nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh ở Việt Nam” với mục tiêu Làm rõ cơ sở lý luận, xây dựng và áp dụng thử nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh góp phần nâng cao chất lượng quản lý và hoạch định chính sách phát triển đô thị bền vững.
Bản thân khái niệm “đô thị xanh” là một khái niệm phức tạp đa chiều, chưa có sự thống nhất chung. Việc đo lường khái niệm đô thị xanh cũng mới đang ở giai đoạn đầu, mang tính thử nghiệm. Vì vậy để tài cần có cách tiếp cận thiết kế nghiên cứu phù hợp.
Cách tiếp cận chủ yếu trong đề tài này là cách tiếp cận liên ngành và cách tiếp cận hệ thống bởi lẽ khái niệm “đô thị xanh” mang tính liên ngành cao. Việc phân tích, thao tác hóa và vận dụng trong thực tế khái niệm này đòi hỏi sự phối hợp liên ngành kinh tế, xã hội, môi trường và cả những vấn đề kỹ thuật, kiến trúc. Việc nhìn nhận thiên lệch về bất cứ chiều cạnh nào của khái niệm này cũng làm mất đi giá trị lý luận và thực tiễn của nó.
Bên cạnh đó, việc đo lường khái niệm này đòi hỏi cách tiếp cận hệ thống. Bản thân bộ chỉ số đô thị xanh là một hệ thống chỉ số hoàn chỉnh bao gồm các nhóm chỉ số thành phần có quan hệ hữu cơ với nhau. Thêm vào đó, khái niệm, “đô thị xanh” cũng như bộ chỉ số đô thị xanh cần được nhìn nhận như là một bộ phận của một hệ thống bao trùm hơn, ví dụ như khái niệm, “phát triển bền vững”. Về phương diện thực tế, việc xây dựng, thử nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh cần được xem xét trong tổng thể quá trình quản lý, phát triển đô thị nói riêng và quá trình phát triển kinh tế- xã hội nói chung. Cách tiếp cận liên ngành, mang tính hệ thống sẽ giúp nhìn nhận đầy đủ, toàn diện, chính xác hơn khái niệm đô thị xanh cũng như vai trò của nó trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Đô thị hoá và phát triển đô thị theo hướng bền vững đã và đang là một vấn đề nhận được sự quan tâm lớn trong các thảo luận chính sách ở nước ta. Chính phủ đã thông qua một loạt các chiến lược, chính sách, chương trình hành động liên quan đến việc thúc đầy phát triển đô thị xanh và bền vững với những chỉ tiêu chủ yếu rất cụ thể cho việc phát triển đô thị theo hướng xanh và bền vững cho giai đoạn phát triển mới ở nước ta. Đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức thực hiện, xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát đánh giá hiện trạng và quá trinh thực hiện chính sách nhằm góp phần đề xuất, phê duyệt, điều chỉnh và thúc đấy thực hiện các giải pháp phát triển đô thị xanh. Việc hoàn thiện các công cụ theo dõi giám sát, trong đó có việc áp dụng hệ thống chỉ tiêu và Bộ chỉ số đô thị xanh, đô thị phát triển bền vững có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hỗ trợ, thúc đấy chính sách này. Bộ chỉ số Đô thị xanh do nhóm nghiên cứu đề xuất và áp dụng thử nghiệm tại TP. Vĩnh Yên đã kế thừa và vận dụng linh hoạt kinh nghiệm xây dựng Bộ chỉ số đô thị xanh trên thế giới đối với điều kiện của TP. Vĩnh Yên. Bộ chỉ số đảm bảo tính bao quát, nhất quán về mặt phương pháp và đã chứng tỏ có thể triển khai và thực hiện được. Các quan sát thực tế cũng cho thấy các kết quả và đánh giá chung rút ra từ Bộ chỉ số đã phản ánh tương đối chính sách tình hình thực tế tại địa phương và có thể sử dụng tốt trong việc cung cấp các thông tin, bằng chứng thực tế và phân tích khoa học cho các Báo cáo về môi trường và phát triển đô thị xanh và bền vững trong tương lai. Nghiên cứu thử nghiệm cũng cho thấy cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường năng lực chuyên môn, huy động các nguồn tài chính để đảm bảo tốt hơn công tác theo dõi, giám sát, đánh giá quá trình phát triển thông qua việc xây dựng và phổ biến kết quả Bộ chỉ số Đô thị xanh. Trước mắt có thể áp dụng thử nghiệm Bộ chỉ số Đô thị xanh trên quy mô rộng hơn để có thể có các đánh giá chính xác, khách quan hơn về tính hữu ích, khả năng thực hiện của Bộ chỉ số này trên thực tế, trước khi được thể chế hóa chính thức trong các văn bản chính sách có liên quan.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 16469/2019) tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)