Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nâng cao chất lượng đàn bò và trồng chế biến thức ăn thô cho bò thịt tại huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang
Cập nhật vào: Thứ tư - 23/04/2025 13:04
Cỡ chữ
Trong những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò ZeBu đã đạt được những thành tựu đáng kể trên cả nước, đặc biệt ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc. Tỷ lệ bò lai ZeBu đã tăng lên đáng kể, đạt 70-80% ở nhiều tỉnh, giúp nâng cao tầm vóc và tỷ lệ thịt xẻ so với bò địa phương. Tuy nhiên, tại tỉnh Tuyên Quang, tổng đàn bò năm 2019 đạt khoảng 35.600 con, chủ yếu được chăn nuôi theo hình thức hộ gia đình, chưa có sự tham gia của doanh nghiệp. Giống bò chủ yếu là bò địa phương, năng suất và chất lượng thịt còn thấp, dẫn đến sản phẩm thịt bò trên thị trường chưa có tính cạnh tranh cao.
Thực trạng chăn nuôi bò tại huyện Sơn Dương và tỉnh Tuyên Quang bộc lộ nhiều vấn đề cấp thiết. Chất lượng con giống còn thấp, chủ yếu là bò địa phương với tầm vóc nhỏ, tỷ lệ thịt xẻ và tốc độ sinh trưởng kém, gây hạn chế hiệu quả kinh tế. Phương thức chăn nuôi còn lạc hậu, chủ yếu là chăn thả tự nhiên (trên 70%) với quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình (1-2 con/hộ), sự tham gia của doanh nghiệp còn hạn chế, và tỷ lệ nuôi nhốt thâm canh còn rất thấp (10-15%). Tình trạng thiếu thức ăn xanh cho bò vào mùa khô diễn ra phổ biến do người chăn nuôi chưa tận dụng hiệu quả nguồn cỏ và phụ phẩm nông nghiệp dư thừa trong mùa mưa, trong khi diện tích đất bỏ hoang lại khá lớn (7-12%). Việc này dẫn đến lãng phí nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường vào mùa mưa, và thiếu hụt thức ăn nghiêm trọng vào mùa khô. Do đó, việc tập huấn kỹ thuật chế biến, dự trữ thức ăn xanh là cần thiết để chủ động nguồn thức ăn quanh năm, phục vụ thâm canh và tăng đàn. Việc cải tạo giống bằng cách lai tạo bò cái nền Zebu với bò ngoại Brahman đỏ đã chứng minh hiệu quả, nhưng người chăn nuôi cần nắm vững quy trình chăm sóc, phát hiện động dục và phối giống. Mô hình dự án đã áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo với bò đực giống chất lượng cao và trồng, chế biến, dự trữ thức ăn thâm canh, bước đầu tạo ra sự thay đổi tư duy trong cả doanh nghiệp và người chăn nuôi về một nền chăn nuôi bò chủ động và hiệu quả hơn.
Nhằm giải quyết những thách thức trong chăn nuôi bò thịt tại địa phương, đặc biệt là vấn đề chất lượng đàn bò và nguồn thức ăn, KS. Đỗ Xuân Hồng cùng các cộng sự tại Công ty TNHH Một thành viên dịch vụ thương mại Hồng Ánh đã triển khai Dự án: “Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nâng cao chất lượng đàn bò, trồng và chế biến thức ăn thô cho bò thịt tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang”. Dự án đã hoàn thành toàn bộ các nội dung theo hợp đồng và được phê duyệt, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Về chuyển giao công nghệ, 10 quy trình chăn nuôi bò đã được chuyển giao thành công và ứng dụng hiệu quả bởi các hộ dân. Công tác đào tạo, tập huấn đã trang bị kiến thức cho 5 kỹ thuật viên cơ sở và 200 lượt hộ chăn nuôi về kỹ thuật chăn nuôi bò thịt. Dự án xây dựng thành công 4 mô hình ứng dụng công nghệ, cho thấy hiệu quả và sự phù hợp với điều kiện địa phương tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
* Mô hình chăn nuôi bò tập trung: Đã nhập 70 bò cái và 1 bò đực giống, đạt 100% yêu cầu. Tỷ lệ phối giống thành công cao với 116 lượt có chửa và 50 bê con sinh ra (111% so với kế hoạch). Khối lượng sơ sinh và 12 tháng tuổi đều vượt chỉ tiêu (116% và 118% tương ứng). Hiện có 54 bò cái đang mang thai. Mô hình chăn nuôi bò phân tán (9 hộ tham gia): Đã cung cấp 100 bò cái và 1 bò đực giống, đạt 100% yêu cầu. Đạt 130 lượt phối giống thành công và 65 bê con sinh ra (118% so với kế hoạch). Khối lượng sơ sinh và 12 tháng tuổi đạt 100% so với yêu cầu. Hiện có 72 bò cái đang mang thai.
* Mô hình trồng cỏ thâm canh: Tổng diện tích 25 ha (21 ha cỏ voi VA06, 1 ha MulatoIIII, 3 ha ngô lai) đạt năng suất và tổng sản lượng chất xanh theo yêu cầu, thậm chí vượt chỉ tiêu ở cỏ MulatoIIII (102%) và ngô lai (105%), cho thấy sự phù hợp của các giống cỏ với điều kiện địa phương.
* Mô hình chế biến thức ăn thô (ủ chua): Đã xây dựng 13 hố ủ chua (3 tập trung, 10 phân tán), đạt và vượt yêu cầu về số lượng và thể tích. Tổng sản lượng thức ăn ủ chua đạt 1.235 tấn (135% so với kế hoạch), chất lượng tốt, tỷ lệ hao hụt thấp (5%), giúp giải quyết vấn đề thức ăn chất lượng cao và dự trữ cho chăn nuôi bò.
Nhìn chung, dự án đã thành công trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng các mô hình hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần vào phát triển chăn nuôi bò thịt tại huyện Sơn Dương.
Với những kết quả đạt được, nhóm thực hiện dự án đề nghị Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Tuyên Quang, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai các chính sách đặc thù hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ cho doanh nghiệp và người dân trong ứng dụng mô hình tiên tiến nâng cao chất lượng đàn bò và chế biến thức ăn thô, đồng thời đề xuất nhân rộng mô hình chăn nuôi bò thịt thâm canh tập trung trên địa bàn tỉnh và huyện. Bên cạnh đó, kiến nghị các cơ quan chức năng như UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp & PTNT, Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Tuyên Quang, Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Sơn Dương tiếp tục có chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò theo hướng hàng hóa, tập trung. Về tổ chức quản lý, đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục hoàn thiện văn bản hướng dẫn về định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp với doanh nghiệp khi tham gia dự án.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 20672/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
P.T.T (NASTIS)