Tác động của quy mô và kết cấu gia đình tới kết quả học tập và phúc lợi hộ gia đình
Cập nhật vào: Thứ năm - 11/07/2024 13:10
Cỡ chữ
Các nhà kinh tế học cũng như xã hội học từ lâu đã quan tâm đến vai trò của quy mô hộ gia đình và cấu trúc giới trong việc phân bổ các nguồn lực trong gia đình. Một câu hỏi cụ thể được đặt ra là liệu số lượng và cấu trúc về số con cái trong gia đình ảnh hưởng thế nào tới kết quả giáo dục của trẻ nhỏ? Một vấn đề khác liên quan là quy mô hộ gia đình và thành phần giới của con cái có thể ảnh hưởng tới lựa chọn công việc cũng như thu nhập của cha mẹ và qua đó là phúc lợi hộ gia đình.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu nêu ra gợi ý về sự đánh đổi giữa số lượng và chất lượng của trẻ trong hộ gia đình. Tuy nhiên, bằng chứng cho ảnh hưởng của số lượng và tỉ lệ giới của trẻ tới chất lượng giáo dục của trẻ em còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở Việt Nam. Từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu của TS. Vũ Hoàng Linh tại Viện nghiên cứu phát triển Mekong đã thực hiện đề tài: “Tác động của quy mô và kết cấu gia đình tới kết quả học tập và phúc lợi hộ gia đình” trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2020.
Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu sau: nghiên cứu mối liên hệ giữa sự ưa thích rủi ro và sở thích về thời gian của nhà quản lý đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; khai thác vai trò Hiệu ứng mồi (priming effect) của việc phản hồi hàng tháng đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; kiểm chứng và nghiên cứu thực nghiệm xem việc thiết lập mục tiêu theo tháng so với việc thiết lập mục tiêu theo năm có cải thiện được hoạt động của doanh nghiệp hay không; và phân tích thực nghiệm việc thiết lập mục tiêu theo tháng có mang lại nhiều lợi ích cho các nhà quản lý doanh nghiệp, những người có mức thiên lệch về hiện tại (present bias) và/hoặc sợ thua lỗ cao, hay không.
Đề tài nhằm thực hiện mục tiêu đánh giá mức độ ảnh hưởng do số lượng và tỉ lệ giới của trẻ nhỏ đến giáo dục ở trẻ em, cũng như công việc và thu nhập của cha mẹ ở Việt Nam.
Đề tài đã thu được các kết quả nổi bật như sau:
- Mối quan hệ giữa cấu trúc hộ gia đình, tỷ lệ giới tính trong con cái và thứ tự sinh với kết quả học tập của trẻ em.
Sử dụng phương pháp ước lượng biến công cụ để giải quyết vấn đề nội sinh trong số lượng con trong gia đình, các tác giả nhận thấy số con cái trong gia đình có tác động tiêu cực một cách đáng kể đến kết quả học tập của trẻ em. Khi xem xét tác động của thành phần giới tính anh chị em, nghiên cứu xác định rằng việc có thêm một trẻ em trai làm giảm trình độ học vấn trung bình của trẻ em cho cả trẻ em gái và trẻ em trai. Nghiên cứu định rằng thứ tự sinh có ảnh hưởng tiêu cực và đáng kể đến trình độ học vấn của trẻ, mặc dù ảnh hưởng đó dường như biến mất đối với người con út.
Một số hàm ý chính sách được đưa ra từ các kết quả nghiên cứu này. Thứ nhất, tác động tiêu cực của số lượng con cái đối với giáo dục ngụ ý rằng tỷ lệ sinh thấp hơn của Việt Nam, kết quả của chính sách kế hoạch hóa gia đình trong những năm 1990 và 2000, có thể đóng góp vào những thành tựu giáo dục đáng kể của Việt Nam. Thứ hai, thứ tự sinh và thành phần giới tính anh chị em quan trọng hơn số lượng con trong ảnh hưởng tới kết quả giáo dục của trẻ em. Với việc các bậc cha mẹ phân bổ nhiều nguồn lực hơn cho trẻ em trai và các con được sinh ra trước một cách không cân xứng, các chương trình mục tiêu của chính phủ cần giải quyết những vấn đề đó để mang lại cơ hội đi học bình đẳng cho tất cả trẻ em.
- Mối quan hệ giữa số lượng con cái và các kết quả trên thị trường lao động của phụ nữ
Nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của mức sinh đối với sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động và các kết quả khác của thị trường lao động ở Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ Điều tra Lực lượng Lao động Việt Nam. Để giải quyết vấn đề nội sinh trong mức sinh, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp ước tính biến công cụ dựa trên sự ưa thích có cả con trai và con gái với trường hợp có hai con đầu lòng. Kết quả là số trẻ em có tác động tiêu cực đến sự tham gia của bà mẹ vào thị trường lao động và giờ làm việc nhưng không ảnh hưởng đến thu nhập. Ảnh hưởng đến việc tham gia vào thị trường quan trọng đối với phụ nữ trẻ từ 21-35 tuổi nhưng không đáng kể đối với phụ nữ lớn tuổi từ 36-50 nhiều năm. Nhóm lớn tuổi phản ứng bằng cách giảm giờ làm việc thay vì nghỉ việc. Nghiên cứu ủng hộ quan điểm sự gia tăng tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động Việt Nam có thể một phần là do tỷ lệ sinh giảm trong ba thập kỷ qua và giúp khẳng định vai trò của chính sách kế hoạch hóa gia đình của chính phủ Việt Nam.
- Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con cái với sức khỏe và sự hài lòng với cuộc sống của người cao tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy số con không ảnh hưởng đến sự hài lòng trong cuộc sống của cha mẹ nhưng có liên quan bất lợi đến sức khỏe của cha mẹ, được thể hiện bằng một số thước đo về sức khỏe thể chất và tinh thần. Ngược lại, nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn của con cái có tương quan thuận lợi tới chất lượng cuộc sống của cha mẹ lớn tuổi. Các bậc cha mẹ có con cái có trình độ học vấn cao hơn cũng hài lòng hơn với cuộc sống của họ, có tình trạng sức khỏe tốt hơn và ít bệnh tật hơn. Trong số các yếu tố khác thì thu nhập và tài sản là những chỉ số dự báo mạnh mẽ và nhất quán về mức độ hài lòng trong cuộc sống cũng như sức khỏe thể chất và tinh thần của người cao tuổi.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19954/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)