Phát triển nhanh và bền vững: Kinh nghiệm thành công của thế giới và định hướng chính sách của Việt Nam trong điều kiện mới
Cập nhật vào: Thứ ba - 16/04/2024 00:03
Cỡ chữ
Quan điểm phát triển nhanh và bền vững (PTN&BV) đã sớm được Đảng và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, được chuyển hoá thành các chương trình nghị sự, chính sách lớn, trong quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Sau gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, Đảng ta cũng xác định: “còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Tình hình mới hiện nay cũng đặt nước ta trước những thách thức to lớn. Là một quốc gia đang trong quá trình phát triển và mong muốn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, Việt Nam cũng đang đối mặt với mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh với đảm bảo các mục tiêu phát triển bền vững và môi trường. Do vậy, nghiên cứu thành công PTN&BV của quốc tế rút ra những kinh nghiệm, chỉ rõ kinh nghiệm về chính sách, cơ chế và điều kiện, khả năng học hỏi, vận dụng vào Việt Nam và đề xuất những chính sách nhằm thực hiện mục tiêu PTN&BV ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lý luận và thực tiễn. Vì thế, PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng đã phối hợp với các cộng sự tại Trường Đại học Kinh tế - Luật thực hiện đề tài: “Phát triển nhanh và bền vững: Kinh nghiệm thành công của thế giới và định hướng chính sách của Việt Nam trong điều kiện mới” từ năm 2017 đến năm 2020.
Mục tiêu chung mà đề tài hướng đến là nghiên cứu xác lập những luận cứ khoa học của PTN&BV; kinh nghiệm về chính sách, cơ chế và điều kiện mà một số nước trên thế giới đã thành công trong việc PTN&BV; xác định những điều kiện, khả năng vận dụng kinh nghiệm của thế giới vào Việt Nam và đề xuất những giải pháp mang hàm ý chính sách nhằm thực hiện mục tiêu PTN&BV trong điều kiện mới, góp phần xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030.
Các tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia thành công về PTN&BV: Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hoà Liên bang Đức, Phần Lan; Kinh nghiệm một số quốc gia chưa thành công trên các phương diện của PTN&BV: Trung Quốc, Cộng hòa Ý, nhóm nghiên cứu đã rút ra những nhận định chung: (1) PTN&BV là mục tiêu phát triển mang tính khách quan của các nền kinh tế; (2) Nghiên cứu các yếu tố cho việc PTN&BV, nhưng không nhất thiết nước có điều kiện thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên sẽ PTN&BV và ngược lại; (3) Quyết tâm của chính phủ và lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp và sáng tạo là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển ở các quốc gia; (4) Yếu tố quyết định trực tiếp PTN&BV suy cho cùng là chất lượng nhân lực, vốn con người, năng lực về khoa học và công nghệ; (5) Huy động tối đa nguồn vốn đầu tư và phân bổ đầu tư có hiệu quả; (6) Các nước thành công PTN&BV đều đặt nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn ở vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế; (7) Vai trò của nhà nước, trước hết là tầm nhìn và quyết tâm của người đứng đầu quốc gia trong những thời khắc nhất định là nhân tố quyết định cho sự thành bại của mỗi dân tộc.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, nhóm nghiên cứu đã phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế của Việt Nam trong các giai đoạn phát triển gắn với mục tiêu tiêu PTN&BV, phân tích bối cảnh và các xu hướng lớn của thế giới và trong nước, đề tài đã đưa ra những định hướng mục tiêu, nhiệm vụ PTN&BV nền kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao, hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; với một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao và xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp; đất nước phát triển bền vững, thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường và công bằng xã hội. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao, có chỉ số phát triển con người (HDI), GDP xanh, chỉ số phát triển bền vững về môi trường (ESI) trong top 2 ở Đông Nam Á và top 50 thế giới. Đồng thời, đề tài cũng đã đưa ra những khuyến nghị về chính sách và giải pháp để PTN&BV ở Việt Nam trong điều kiện mới, đó là: Cải cách thể chế, xây dựng nhà nước kiến tạo, thúc đẩy PTN&BV; Nhất quán từ lý luận đến thực tiễn trong việc xây dựng chính sách phát triển đất nước; Cải cách thể chế, xây dựng nhà nước kiến tạo để PTN&BV tại Việt Nam; Tạo ra và thúc đẩy “năng lực xã hội”, phát huy vai trò của “vốn con người”; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo để PTN&BV; Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; Phát triển năng lượng tái tạo, thiết lập các chính sách kinh tế khuyến khích bảo vệ môi trường; Điều chỉnh chính sách thích ứng với những biến cố, khủng hoảng.
Kết quả nghiên cứu phục vụ công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để có cơ sở khoa học bổ sung, điều chỉnh hoàn thiện mục tiêu, chính sách, định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19649/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)