Phát triển doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới
Cập nhật vào: Thứ tư - 11/06/2025 13:05
Cỡ chữ
Trong bối cảnh quốc tế mới, nhiều khó khăn, thách thức phát triển đã và đang đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam.Mặc dù bản thân mỗi doanh nghiệp Việt Nam đã và đang có những điều chính chiến lược phát triển cho phù hợp bối cảnh quốc tế mới, nhưng về tổng thể, nền kinh tế Việt Nam vẫn cần có nhiều hơn các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh để tạo ra việc làm có chất lượng. Để người dân Việt Nam nói chung và người lao động Việt Nam nói riêng được hưởng phần lớn các thành tựu phát triển, chính phủ Việt Nam sẽ cần có những giải pháp ứng phó với các tình huống thay đổi của bối cảnh quốc tế mới nhằm khuyến khích phát triển doanh nghiệp Việt Nam, xuất phát từ nền tảng là phúc lợi của người dân Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề phát triển doanh nghiệp Việt Nam càng cấp thiết hơn. Đó là lý do nhóm nghiên cứu của TS. Phí Vĩnh Tường tại Viện kinh tế và chính trị thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã thực hiện đề tài: “Phát triển doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới” từ năm 2020 đến năm 2021.
Đề tài nhằm thực hiện mục tiêu làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển doanh nghiệp trong bối cảnh quốc tế mới; làm rõ thực trạng phát triển của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2010- 2020 theo cơ cấu ngành cũng như theo sự tham gia trong chuỗi giá trị toàn cầu trong đó xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cấp trong chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp; phân tích một số ảnh hưởng của bối cảnh mới đến sự phát triển của doanh nghiệp trong đó xác định những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp; và đề xuất các khuyến nghị chính sách phát triển doanh nghiệp Việt Nam
Trên cơ sở thực trạng phát triển của doanh nghiệp Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị chính sách phát triển doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Về khuyến nghị chính sách phát triển doanh nghiệp, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách để xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển sản xuất, kinh doanh nâng cao năng lực; thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ, ĐMST, chuyển đổi số, tận dụng thành tựu của Cách mạnh công nghiệp lần thứ tư và ứng phó kịp thời với những bất định mang tính toàn cầu; thúc đẩy doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu; tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới phát triển doanh nghiệp tư nhân quy mô vừa và lớn, hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp…
Về khuyến nghị chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam xây dựng các chuỗi giá trị, các tác giả đề xuất ba nhóm chính sách, giải pháp:
Thứ nhất là nhóm chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam hình thành và phát triển chuỗi giá trị trong nước như xác định nhóm ngành, lĩnh vực Việt Nam có ưu thế hình thành và phát triển chuỗi giá trị, hỗ trợ hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết do doanh nghiệp Việt Nam dẫn dắt; huy động, lựa chọn và phát triển một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, tập đoàn kinh tế nhà nước trở thành các doanh nghiệp đầu chuỗi, thực hiện vai trò dẫn dắt, mở đường trong sản xuất ngành, lĩnh vực mới để đáp ứng yêu cầu này, tập trung vào các ngành sản xuất, chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp mũi nhọn; khuyến khích hình thành và phát triển một số doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn kinh tế tư nhân trở thành các doanh nghiệp đầu chuỗi…
Thứ hai là nhóm chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị bao gồm chính sách tạo lập môi trường, điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư (hoàn thiện thể chế, chính sách để thu hút được “đúng” nhà đầu tư nước ngoài; tăng cường kết nối giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, đảm bảo kết nối xuyên biên giới hiệu quả bằng việc thiết lập cơ sở dữ liệu doanh nghiệp (trực tuyến)…); chính sách tạo lập môi trường, điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư (Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đa quốc gia, có khả năng cạnh tranh coi Việt Nam là điểm đến đầu tư; Đảm bảo tính cạnh tranh của các loại chi phí sản xuất kinh doanh, lao động, vận tải, đầu tư, giảm thiểu những chi phí hành chính, chi phí phi chính thức để nâng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi; cải thiện các động lực đầu tư và bảo vệ tài sản nước ngoài, đặc biệt các bí quyết công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài…); chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị (xây dựng và ban hành Chương trình hỗ trợ nâng cấp doanh nghiệp Việt Nam để đáp ứng yêu cầu tham gia chuỗi; Hỗ trợ nâng cao năng lực nhà cung cấp/ doanh nghiệp trong nước, tập trung nâng cấp trong các hoạt động có giá trị gia tăng cao hơn; Nâng cao năng lực ĐMST thông qua việc ban hành và thực hiện các chính sách, ưu đãi đối với ĐMST…).
Thứ ba là nhóm giải pháp từ bản thân doanh nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa cần tiếp tục phát huy sức sáng tạo và linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh mới; dám chấp nhận rủi ro, huy động mọi nguồn lực đầu tư cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ quản lý và đạo tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cấp để có thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp đối tác và tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị trong nước và quốc tế. Trong khi đó, các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế cần chia sẻ thị trường, cơ hội cho doanh nghiệp nhỏ, cần thể hiện tính tiên phong, dẫn dắt, đầu tư vào khoa học và công nghệ và con người để tạo ra một hệ sinh thái phát triển chung, tạo cơ hội cho doanh nghiệp nhỏ phát triển. Doanh nghiệp lớn cần chủ động nghiên cứu xu thế của thế giới, sự chuyển dịch trong bối cảnh hiện nay để đi trước một bước.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20931/2021) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)