Nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trung mô đồng loài trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Cập nhật vào: Thứ sáu - 03/05/2024 00:03
Cỡ chữ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một bệnh phổ biến, bệnh diễn biến mạn tính, đặc trƣng bởi sự tắc nghẽn luồng khí thở ra không hồi phục hoàn toàn, thường tiến triển nặng dần liên quan với đáp ứng viêm mạn tính quá mức ở đường hô hấp và nhu mô phổi với các hạt bụi và khí độc hại. Đợt cấp và các bệnh đồng mắc góp phần làm tăng mức độ nặng của bệnh ở mỗi bệnh nhân. Năm 1992, thuật ngữ BPTNMT chính thức được dùng trong phân loại Quốc tế. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một gánh nặng bệnh tật toàn cầu với tỷ lệ tử vong cao, ảnh hưởng đến hơn 380 triệu người trên toàn thế giới. BPTNMT là nguyên nhân gây tử vong cao thứ ba vào năm 2020. Tỷ lệ bệnh nhân BPTNMT có xu hướng tăng trong những năm gần đây do tỷ lệ hút thuốc và dân số già ngày càng cao ở nhiều quốc gia trên thế giới.
BPTNMT thường triến triển với các đợt cấp và nặng dần theo thời gian dù được điều trị phối hợp các biện pháp. Mục tiêu điều trị lâu dài BPTNMT là làm giảm triệu chứng, giảm sự tiến triển của bệnh, giảm đợt cấp, tăng khả năng hoạt động thể lực, chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân (BN) và làm giảm tỷ lệ tử vong. Các biện pháp điều trị BPTNMT bao gồm dùng thuốc và không dùng thuốc. Các thuốc điều trị BPTNMT hiện tại bao gồm thuốc giãn phế quản, corticoid dạng hít, long đờm, các thuốc kháng viêm mới... Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy hiệu quả hạn chế của điều trị bằng thuốc trong việc làm giảm các đợt cấp và cải thiện chức năng phổi, cũng nhƣ giảm tỷ lệ tử vong. Một số biện pháp can thiệp đã được áp dụng điều trị trong BPTNMT như: phẫu thuật giảm thể tích phổi, nội soi giảm thể tích phổi, ghép phổi… Điều trị giảm thể tích phổi có chỉ định hẹp và hiệu quả còn hạn chế trong BPTNMT. Ghép phổi trong BPTNMT cũng có nhiều khó khăn trong BPTNMT do nguồn phổi hiến khó khăn, độ tuổi của bệnh nhân cao không phù hợp, kỹ thuật còn nhiều tai biến, biến chứng và thải ghép.
Các phương pháp điều trị hiện nay, bao gồm cả biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc, vẫn chưa đáp ứng được mong muốn quan trọng của người bệnh là cải thiện chất lượng cuộc sống bằng cách tăng khả năng gắng sức và giảm số lần nhập viện vì đợt cấp. Với cơ chế sinh bệnh có liên quan đến quá trình viêm và hoạt động quá mức của hệ miễn dịch, chúng ta cần một phương thức điều trị hợp lý, đi đúng cơ chế miễn dịch của bệnh.
Để triển khai ghép TBG trung mô đồng loài từ dây rốn, đề tài cần triển khai các công việc bao gồm: Tạo nguồn TBG trung mô từ mô dây rốn trẻ sơ sinh đủ điều kiện để cấy ghép đồng loài theo đường truyền tĩnh mạch theo quy trình kỹ thuật đã đƣợc Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y học Bộ Y tế đồng ý cho áp dụng trên người; Xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn bệnh nhân, quy trình ghép TBG trung mô từ dây rốn đồng loài cho bệnh nhân BPTNMT; Đánh giá tính an toàn và hiệu quả điều trị của ghép TBG trung mô từ dây rốn đồng loài cho bệnh nhân BPTNMT qua các chỉ tiêu lâm sàng và xét nghiệm.
Xuất phát từ thực tiễn trên, GS.TS. Đồng Khắc Hưng cùng nhóm nghiên cứu tại Học viện Quân y thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trung mô đồng loài trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính” với mục tiêu: Xây dựng được qui trình ứng dụng tế bào gốc trung mô đồng loài trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của ghép tế bào gốc trung mô đồng loài trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Theo GOLD (2020), BPTNMT là bệnh hô hấp phổ biến có thể phòng và điều trị được. Bệnh đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp dai dẳng và giới hạn luồng khí thở, là hậu quả của những bất thường của đường thở và/hoặc phế nang thường do phơi nhiễm với các phân tử hoặc khí độc hại… trong đó khói thuốc lá, thuốc lào là yếu tố nguy cơ chính, ô nhiễm không khí và khói chất đốt cũng là yếu tố nguy cơ quan trọng gây BPTNMT. Các bệnh đồng mắc và đợt bùng phát làm nặng thêm tình trạng bệnh.
Viêm đường thở là một trong những cơ chế bệnh sinh của BPTNMT và được nhiều tác giả công nhận. Quá trình viêm trong BPTNMT đặc trưng bởi sự tăng bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào, lympho T (đặc biệt là TCD8) ở cả đường thở và nhu mô phổi. Viêm đường thở có khi biểu hiện rất sớm, có khi bắt đầu trước khi có biểu hiện lâm sàng. Trong đợt cấp của BPTNMT, viêm đường thở nặng lên do sự gia tăng số lượng tế bào viêm mới và tăng hoạt hoá các tế bào viêm. Có một mối liên quan giữa số lượng các tế bào viêm và mức độ nặng của BPTNMT.
Tiến hành nghiên cứu ứng dụng TBG trung mô đồng loài từ mô dây rốn trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Thử nghiệm lâm sàng mô tả cắt ngang có đối chứng so sánh trước sau ở nhóm nghiên cứu, đề tài kết luận:
1. Đã xây dựng được qui trình ứng dụng tế bào gốc trung mô đồng loài trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: Đề tài đã tiến hành ghép TBG cho 63 bệnh nhân BPTNMT với tỷ lệ thành công 63/63 (100%). Nhóm bệnh nhân BPTNMT được điều trị bằng truyền tế bào gốc đồng loài từ dây rốn:
Liều lượng tế bào ghép cho bệnh nhân: 1,5 triệu TBG trung mô/kg cân nặng bằng truyền đường tĩnh mạch.
- Bệnh nhân được truyền dung dịch tế bào gốc bằng bộ lọc truyền máu.
- Dung dịch tế bào gốc được pha vào 100 ml nước muối sinh lý.
- Truyền dung dịch trên trong 1 giờ. Theo dõi bệnh nhân trong vòng 24 giờ sau khi truyền tại phòng Hồi sức khoa Hô hấp. Sau đó nếu tình trạng bệnh nhân ổn định sẽ được chuyển về phòng bệnh với sự theo dõi sát của nghiên cứu viên/bác sỹ
Nhóm bệnh nhân BPTNMT được điều trị bằng truyền tế bào gốc đồng loài từ dây rốn được hoạt hóa bằng HTGTC của bệnh nhân:
- Lấy máu bệnh nhân BPTNMT để xử lý tách huyết tương giàu tiểu cầu. Trộn với tế bào gốc để truyền cho bệnh nhân qua đường tĩnh mạch ngoại vi.
- Liều lượng tế bào ghép cho bệnh nhân: 1,5 triệu TBG trung mô/kg cân nặng bằng truyền đường tĩnh mạch. Bệnh nhân đƣợc truyền dung dịch tế bào gốc bằng bộ lọc truyền máu.
- Dung dịch tế bào gốc được pha vào 100 ml nước muối sinh lý. Truyền dung dịch trên trong 1 giờ.
- Theo dõi bệnh nhân trong vòng 24 giờ sau khi truyền tại phòng Hồi sức khoa Hô hấp. Sau đó nếu tình trạng bệnh nhân ổn định sẽ đƣợc chuyển về phòng bệnh với sự theo dõi sát của nghiên cứu viên/bác sỹ. Tương tự như lần truyền 1 lần truyền thứ 2 sau 6 tháng.
- Điều trị nội khoa kết hợp: Tất cả BN trong nghiên cứu đều được điều trị nội khoa BPTNMT giai đoạn ổn định theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Các mẫu TBG trung mô đồng loài từ dây rốn: TBG sau phân lập, bảo quản, hoạt hóa có chất lượng tốt, đáp ứng được yêu cầu theo tiêu chí hướng dẫn quốc tế với mẫu tế bào dùng cho điều trị bệnh ở người:
- Thu nhận được 20/20 mẫu dây rốn đạt tiêu chuẩn sử dụng cho nghiên cứu
- Đã chuẩn bị được 120 mẫu TBG trung mô từ dây rốn.
- Tỉ lệ tế bào sống cao trên 90%.
- Mẫu tế bào có chứa quần thể TBG có khả năng bám dính và tạo cụm tế bào, có hình thoi và biểu hiện các marker đặc trưng của TBG trung mô: dương tính trên 95% với CD44, CD73, CD90, trên 90% với CD105 và âm tính với CD11b, CD19, CD34, CD45, HLA-DR (dưới 2%).
- Tế bào gốc không có sự biến động về số lượng NST của tế bào (2n=46), đảm bảo độ vô khuẩn, âm tính với nội độc tố và mycoplasma.
2. Đã đánh giá tính an toàn và hiệu quả của ghép tế bào gốc trung mô đồng loài trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính:
- Kết quả cho thấy liệu pháp ghép TBG trung mô đồng loài an toàn không có sốc phản vệ, tử vong ngay sau ghép, 24 giờ, 1 tuần và 1 tháng sau ghép tế bào gốc. Có hiệu quả điều trị qua 6 và 12 tháng theo dõi điều trị.
- Các chỉ số xét nghiệm máu của bệnh nhân nhóm TBG và nhóm chứng (nhóm điều trị nội khoa thường quy) ở các thời điểm trước ghép TBG lần 1, sau ghép TBG 1 tháng, 3 tháng, 7 tháng (trước ghép TBG lần 2), 12 tháng đều ở ngưỡng bình thường. Điều này cho thấy việc sử dụng TBG trung mô đồng loài từ mô dây rốn là an toàn, không ảnh hưởng đến các cơ quan, chức năng sinh lý của người bệnh.
- Sau ghép TBG giúp bệnh nhân BPTNMT tăng chỉ số FEV1, giảm nồng độ CRP trong máu, giảm điểm số khó thở theo thang đo mMRC và CAT, tăng khả năng đi bộ 6 phút và giảm số đợt cấp trong 6 và 12 tháng.
- Đã xác định nồng độ, đánh giá sự thay đổi và giá trị của nồng độ IL-1β, IL6, IL8, IL10, IFNγ, IGFα, TNF α và VEGF của bệnh nhân BPTNMT được điều trị bằng TBG trung mô đồng loài từ mô dây rốn. Kết quả sau khi điều trị bằng ghép TBG trung mô đồng loài từ mô dây rốn, làm giảm một số cytokine bất lợi và tăng nồng độ VEGF.
- Kết quả nhóm I ghép TBG và nhóm II ghép TBG và HTGTC: các chỉ số về lâm sàng, cận lâm sàng sau 1, 3, 7 và 12 tháng ghép tế bào gốc của cả hai nhóm ở một vài thời điểm kết quả có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, nhưng vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Kết quả chung hiệu quả lâm sàng và cận lâm sàng của hai nhóm cải thiện tương đương nhau.
- Kết quả đánh giá hiệu quả chống viêm và điều biến miễn dịch ở bệnh nhân BPTNMT của nhóm I và nhóm II: Nồng độ IL-1β, IL-6, IL-8, IL10, TNF-α ở bệnh nhân BPTNMT cho kết quả có sự khác biệt giữa nhóm I và nhóm II có ý nghĩa thống kê (PI-II < 0,05). Nồng độ TGF–α và VEGF kết quả không có sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Kết quả sau khi điều trị bằng ghép TBG trung mô đồng loài từ mô dây rốn, ở nhóm được ghép TBG làm giảm một số cytokine bất lợi và tăng nồng độ VEGF. Đặc biệt ở nhóm II nồng độ VEGF tăng mạnh.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19729/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)