Nghiên cứu tuyển chọn giống và hoàn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh một số cây ăn quả chủ lực (chuối cam bưởi nhãn vải) ở các tỉnh phía Bắc
Cập nhật vào: Chủ nhật - 12/10/2025 13:09
Cỡ chữ
Trong những năm gần đây, sản xuất cây ăn quả nước ta có bước phát triển khá toàn diện, liên tục tăng trưởng cả về diện tích, sản lượng, phục vụ tốt nhu cầu tiêu thụ nội địa và gia tăng xuất khẩu. Sản xuất rau quả nói chung và cây ăn quả nói riêng đã có đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng ngành nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập, làm giàu cho nông dân tại nhiều vùng địa phương trong cả nước. Phát triển sản xuất cây ăn quả đã làm thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của một số tỉnh, từ chỗ cây ăn quả chiếm một tỷ trọng rất thấp trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh trở thành một trong các cây trồng chính của địa phương.
Các tỉnh phía Bắc có khí hậu nhiệt đới gió mùa, cùng với sự phân hoá của độ cao địa hình tạo nên những tiểu vùng sinh thái đa dạng, có thể phát triển được nhiều loại cây ăn quả có nguồn gốc nhiệt đới như chuối, dứa, xoài..., á nhiệt đới như vải, nhãn, hồng, cây ăn quả có múi (cam, quýt, bưởi) và một số cây ăn quả ôn đới độc đáo riêng có của vùng như lê, đào, mận, mơ...Trên phạm vi toàn miền đã hình thành các vùng cây ăn quả hàng hóa tập trung quy mô lớn như: vải thiều (Bắc Giang, Hải Dương), nhãn (Hưng Yên, Sơn La), cam (Hà Giang, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh), bưởi (Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Giang), chuối (Hưng Yên, Phú Thọ) ...
Theo số liệu thống kê năm 2019, diện tích chuối của cả nước là 145,198 nghìn ha và sản lượng đạt trên 2 triệu tấn. Các tỉnh có diện tích và sản lượng chuối lớn là Sóc Trăng, Cà Mau, Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Nai, Quảng Nam, Thanh Hóa, Phú Thọ, Lào Cai, Hà Nội,.... Từ năm 2002 đến nay, sản xuất chuối tăng cả về diện tích và sản lượng, với mức tăng bình quân hàng năm 3% về diện tích, 6% về sản lượng. Chuối là cây ăn quả có diện tích và sản lượng lớn nhất trong các cây ăn quả của Việt Nam, được trồng từ các tỉnh phía Bắc cho tới các tỉnh phía Nam và là cây ăn quả có tiềm năng xuất khẩu lớn.
Với cây ăn quả có múi, tính đến năm 2019, diện tích cây ăn quả có múi của cả nước là 242,840 nghìn ha, sản lượng trên 2.095 nghìn tấn. Diện tích cây có múi (cam, quýt, chanh, bưởi,...), đứng thứ nhất; sản lượng cây ăn quả có múi đứng thứ 2, sau sản lượng chuối. Cũng tương tự như cây chuối, cây ăn quả có múi được trồng ở hầu hết các tỉnh phía Bắc. Trong đó, các tỉnh trồng cây ăn quả có múi tập trung có diện tích trồng và sản lượng thu hoạch hàng năm lớn là Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Lạng Sơn, Hòa Bình, Hà Nội, Hưng Yên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế.
Về kỹ thuật thâm canh cây ăn quả, tại mỗi vùng trồng tập trung người nông dân có những kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây ăn quả khác nhau, áp dụng trong phạm vi hẹp của một vùng sản xuất. Các kinh nghiệm sản xuất này rất cần được kiểm chứng trên diện rộng, nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện thành các biện pháp kỹ thuật đưa vào áp dụng rộng rãi trong sản xuất cây ăn quả ở các tỉnh phía Bắc. Mặt khác, các tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh cây ăn quả như kỹ thuật cắt tỉa cành, kỹ thuật tưới nước và bón phân, quản lý các đối tượng sâu bệnh gây hại theo hướng tạo sản phẩm an toàn, bền vững cũng như các biện pháp kỹ thuật tác động ở giai đoạn cận thu hoạch và sau thu hoạch chưa được áp dụng trên diện rộng. Trên hai đối tượng cây ăn quả nhãn, vải, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng có những tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp nói chung và tác động đến sản xuất cây ăn quả nói riêng, các cây nhãn, vải đã có những thay đổi về khả năng ra hoa và có ảnh hưởng lớn đến năng suất nhãn, vải ở các tỉnh phía Bắc. Nhiệt độ trong các tháng mùa đông ấm lên đã làm cho tỷ lệ ra hoa của nhãn, vải ở nhiều tỉnh phía Bắc đạt được rất thấp; các biện pháp kỹ thuật tác động để nâng cao tỷ lệ ra hoa cho nhãn, vải cho hiệu quả không cao.
Để sản xuất các cây ăn quả chuối, cam, bưởi, nhãn, vải ở các tỉnh phía Bắc theo hướng sản xuất hàng hóa, đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, tạo sản phẩm an toàn và bền vững thì rất cần có các nghiên cứu tiếp tục về giống và các biện pháp kỹ thuật canh tác theo hướng tiên tiến cho các đối tượng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao này. Trên cả năm đối tượng cây ăn quả chuối, cam, bưởi, nhãn, vải đều cần thiết có những nghiên cứu đánh giá hiện trạng sản xuất, về cơ cấu các giống trồng, về các biện pháp kỹ thuật canh tác đang được áp dụng trong sản xuất ở từng vùng và đánh giá triển vọng phát triển sản xuất ở các tỉnh hiện chưa là các vùng trồng truyền thống. C
Xuất phát từ thực tiễn trên, Chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Quốc Hùng cùng nhóm nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Rau quả thực hiện “Nghiên cứu tuyển chọn giống và hoàn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh một số cây ăn quả chủ lực (chuối cam bưởi nhãn vải) ở các tỉnh phía Bắc” với mục tiêu xác định được vùng trồng, bộ giống và các biện pháp kỹ thuật thích hợp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn thực phẩm, giảm giá thành sản xuất chuối, cam, bưởi, nhãn, vải tại các vùng trồng tập trung ở các tỉnh phía Bắc phục vụ nội tiêu và xuất khẩu.

Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
1. Đề tài đã được tổ chức triển khai các nội dung nghiên cứu đúng tiến độ; đạt được đầy đủ về chủng loại, số lượng, khối lượng và chất lượng của các sản phẩm so với mục tiêu của đề tài đặt ra, với thuyết minh đã được phê duyệt và hợp đồng đã được ký
2. Đề tài đã đánh giá được hiện trạng sản xuất các cây ăn quả: chuối, cam, bưởi, nhãn, vải ở các tỉnh phía Bắc. Tùy thuộc vào điều kiện sinh thái của từng tỉnh, các cây ăn quả trên chiếm tỷ lệ diện tích trồng, vai trò quan trọng trong cơ cấu các giống cây ăn quả của địa phương khác nhau.
- Diện tích chuối ở các tỉnh có diện tích trồng tập trung chiếm tỉ lệ từ 6,93 - 75,43% so với diện tích trồng cây ăn quả của mỗi tỉnh. Trong đó, năm 2018, diện tích trồng chuối lớn nhất là Quảng Trị (4.728 ha), nhỏ nhất là Thừa Thiên Huế (891 ha). Các giống chuối chính hiện trồng là chuối Williams, Tiêu hồng, chuối tây và chuối ngự, chuối tiêu Quảng Trị và tây Quảng Trị.
- Năm 2018, Hà Giang có diện tích cây cam lớn nhất, đạt sấp sỉ 8.482ha, tiếp sau là tỉnh Tuyên Quang với 8.331,0 ha, tỉnh Hòa Bình với 4.346ha; tiếp theo là các tỉnh: Hưng Yên, Hà Tĩnh và Yên Bái. Những giống chính hiện sử dụng trong sản xuất là cam Xã Đoài, V2, cam CS1 và cam Sành.
- Năm 2018, Hà Nội là tỉnh có diện tích bưởi lớn nhất, đạt 3.806,0 ha, tiếp sau Bắc Giang (3.568,0 ha), Nghệ An (900 ha). Về cơ cấu giống trồng, Hà Nội có bưởi Diễn, chiếm 80,62%; Bắc Giang có bưởi Diễn chiếm 67,62%; Phú Thọ là bưởi Đoan Hùng, chiếm 78,52%; Tuyên Quang là bưởi Diễn, chiếm 67,69%; Thanh Hóa là bưởi Diễn, chiếm 55%; Nghệ An là bưởi Quang Tiến, chiếm trên 40 %; Hà Tĩnh là bưởi Phúc Tạch, chiếm trên 92,15%.
- Năm 2018, các tỉnh có diện tích trồng nhãn lớn là Sơn La với 8.495 ha; Yên Bái với 1.050 ha, Lào Cai với 1.269 ha, Hưng Yên với 3.554 ha và Hà Nội đạt 1.885 ha. Các tỉnh có các giống nhãn có chất lượng cao thuộc nhóm nhãn lồng là Sơn La (33,15%), Hưng Yên (51,23%), Hà Nội (43,56%); các tỉnh có các giống trồng thuộc nhóm nhãn nước nhiều hơn là: lào Cai (36,58%), Yên Bái (30,91%), Thái Nguyên (34,61%) và Tuyên Quang (37,33%).
- Năm 2018, các tỉnh có diện tích trồng vải lớn là Bắc Giang (29.480 ha), Hải Dương (10.650 ha), Quảng Ninh (2.617 ha) và Thái Nguyên (3.091 ha). Ở các tỉnh trồng vải tập trung, giống vải Thiều chiếm tỷ lệ lớn; các giống vải chín sớm chiếm tỷ lệ nhỏ hơn trong cơ cấu giống, chiếm từ 11,1% đến 49,8% ở Bắc Giang, 5,5 - 40,6% ở Hải Dương, 25-60% ở Quảng Ninh và 10-15% ở Thái Nguyên.
Tại các vùng trồng tập trung, mỗi đối tượng cây ăn quả đều có một số đối tượng bệnh nguy hiểm gây hại hoặc trở ngại trong sản xuất làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng quả của các cây ăn quả. Trên cây chuối, bệnh héo 539 vàng do nấm Fusarium oxysporum (FOC) gây hại xuất hiện trên cả 2 nhóm giống ở tất cả các tỉnh; các bệnh greening và vàng lá thối rễ gây hại năng trên các giống cam, bưởi ở một số vùng trồng. Trên các cây nhãn, vải, trở ngại lớn nhất là hiện tượng ra hoa không đều làm ảnh hưởng đến năng suất thu được.
Một số tiến bộ kỹ thuật mới đã được đưa vào áp dụng trong sản xuất các cây ăn quả: chuối, cam, bưởi, nhãn, vải ở tất cả các tỉnh trồng cây ăn quả tập trung ở các tỉnh phía Bắc. Trên cây chuối, các tiến bộ kỹ thuật mới được áp dụng là sử dụng bột ngô, đậu tương bón bổ sung cho cây; sử dụng chế phẩm nấm đối kháng trichoderma hạn chế bệnh héo vàng gây hại; trên cây các cây cam, bưởi là canh tác theo hướng hữu cơ; trên các cây nhãn vải là tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, xử lý ra hoa rải vụ thu hoạch quả.
3. Ngoài các tỉnh có diện tích trồng tập trung các cây ăn quả: chuối, cam, bưởi, nhãn, vải lớn, một số tỉnh khác ở phía Bắc có điều kiện sinh thái phù hợp để mở rộng diện tích trồng cho các cây ăn quả trên.
- Điều kiện sinh thái và đất đai của các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Thái Bình cơ bản phù hợp cho sự phát triển của cây chuối. Tiềm năng phát triển diện tích chuối là khá lớn: Lào Cai khoảng 16.000 ha; Yên Bái 2.000 ha; Hà Nam khoảng 3.000 ha; Vĩnh Phúc khoảng 5.000 ha và Thái Bình khoảng 3.000 ha.
- Điều kiện sinh thái và đất đai của các tỉnh: Lai Châu, Bắc Giang, Sơn La, Hưng Yên và Quảng Ninh là phù hợp cho phát triển cây cam. Các tỉnh giữ ổn định diện tích trồng là: Bắc Giang (4.500 ha), Hưng Yên (1.800 ha) và Sơn La (2.200 ha); các tỉnh có thể mở rộng diện tích trồng là: Lai Châu (600 ha) và Quảng Ninh (500 ha).
- Cây bưởi có khả năng tính thích ứng và trồng phù hợp tại các tỉnh: Lào Cai, Điện Biên, Bắc Giang, Thái Nguyên và Thanh Hóa. Các tỉnh có thể mở rộng diện tích trồng bưởi là: Lào Cai đến 700 ha, Điện Biên đến 300 ha, Thái Nguyên đến 1.200 ha, Thanh Hóa đến 2.000 ha; Bắc Giang ổn định diện tích 4.000 ha
- Điều kiện sinh thái và đất đai của các tỉnh: Hải Dương, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa và Hòa Bình cơ bản phù hợp để phát triển cây nhãn. Tuy nhiên, do địa phương có nhiều cây trồng có lợi thế canh tranh lớn hơn nên các tỉnh nên các tỉnh giữ ổn định diện tích trồng nhãn như hiện tại.
- Điều kiện sinh thái và đất đai của các tỉnh: Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Lạng Sơn và Hưng Yên có thể thích hợp cho việc trồng vải hàng hóa. Tuy nhiên, tương tự như cây nhãn, co các địa phương có nhiều cây trồng có lợi thế canh tranh lớn hơn nên các tỉnh giữ ổn định diện tích trồng vải như hiện tại.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 21040/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
Đ.T.V (NASTIS)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








