Nghiên cứu sự biến đổi dòng chảy mặt vùng Đồng Tháp Mười dưới tác động của hệ thống đê bao và đề xuất các biện pháp quản lý
Cập nhật vào: Thứ hai - 18/01/2021 03:35
Cỡ chữ
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam và lưu vực sông Mekong hiện nay và trong tương lai giữ một vai trò quan trọng không chỉ trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia ven sông mà còn cả trong phát triển hợp tác kinh tế và chính trị trong khu vực. Nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mekong tại các nước ven sông sẽ ngày càng lớn và chắc chắn sẽ tăng đáng kể trong tương lai. Châu thổ sông Mekong được phân thành các vùng: Đồng Tháp Mười (ĐTM); giữa sông Tiền và sông Hậu; Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu.
Đồng Tháp Mười (ĐTM) là vùng có hệ thống đê bao dài nhất với trên 3.150 km đê bao kín và trên 6.880 km đê bao lửng. Đê bao, bờ bao ở ĐBSCL nói chung và ĐTM nói riêng là công trình đa mục tiêu nhằm bảo vệ an toàn cho người dân, cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất 3 vụ, đồng thời biết tận dụng công trình kiểm soát lũ để lấy phù sa, thủy sản và vệ sinh đồng ruộng. Phát triển đê bao, bờ bao chống lũ ngoài quy hoạch đã làm cản trở lũ, làm tăng thời gian ngập lũ, mực nước ngập và thay đổi dòng chảy lũ. Hướng các tuyến đê bao xây dựng thường nằm vuông góc với dòng chảy lũ nên làm giảm khả năng thoát lũ rất lớn. Như vậy dòng chảy lũ sẽ tập trung chủ yếu trên sông Tiền, sông Hậu dẫn tới gia tăng chiều cao đê chống lũ cho một số đô thị, thành phố ở hạ du…
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá một cách cụ thể việc ảnh hưởng của công trình này, cụ thể như hệ thống đê bao chống lũ đang ngày càng phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa phương trong vùng sự đến biến động của tài nguyên nước cũng như xâm nhập mặn hiện nay. Bởi lẽ, hiện nay có nhiều nhận định rằng: việc sử dụng hệ thống đê cao để ngăn lũ là ý tưởng của các nhà thủy lợi đến từ Đồng bằng Bắc Bộ; vì không đủ khả năng thoát lũ, hệ thống đê đập ngăn mặn và đường giao thông này đã làm cản trở nước lũ trong vùng ĐBSCL thoát ra biển Đông và vịnh Thái Lan. Hậu quả là mực nước ngập trong vùng ĐBSCL ngày càng sâu hơn và thời gian ngập ngày càng dài hơn.
Vì vậy, để làm rõ ảnh hưởng của hệ thống đê bao chống lũ đến dòng chảy mặt vùng ĐTM thì đề tài “Nghiên cứu sự biến đổi dòng chảy mặt vùng Đồng Tháp Mười dưới tác động của hệ thống đê bao và đề xuất các biện pháp quản lý” do Cơ quan chủ trì Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài ThS. Nguyễn Thị Tuyết có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cấp bách.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau: Đồng Tháp Mười (ĐTM) là vùng có hệ thống đê bao dài nhất với trên 3.150 km đê bao kín và trên 6.880 km đê bao lửng. Trong đó, hệ thống bờ bao bảo vệ lúa có tổng chiều dài 7.171 km, diện tích phục vụ 172.314 ha/197.914 ha lúa hè thu, đạt tỷ lệ 87%. Các khu vực sản xuất 3 vụ có đê bao đảm bảo chống lũ 100%. Ngoài ra tỉnh Đồng Tháp còn có đê tự nhiên ven sông Tiền và sông Hậu, hình thành do quá trình bồi tụ phù sa của sông Tiền và sông Hậu, tạo thành dãy đất cao và các cù lao dọc theo sông. Tính đến năm 2015, Tỉnh Đồng Tháp có 1.174 tiểu vùng (ô bao) có nhiệm vụ kiểm soát lũ, bảo vệ sản xuất cho hơn 233.082 ha sản xuất. Trong đó có 619 tiểu vùng bao triệt để, kiểm soát lũ hơn 99.853 ha và 555 tiểu vùng bao chống lũ tháng 8, kiểm soát lũ cho 133.229 ha để sản xuất lúa 2 vụ.
Hệ thống công trình thủy lợi vùng ĐBSCL nói chung và vùng ĐTM nói riêng hầu hết được sử dụng đa mục tiêu: cấp nước, tiêu thoát nước, thoát lũ… Trong những năm gần đây, một số công trình thủy lợi đã được xây dựng, các kênh trục và kênh cấp I, cấp II được đào mới, nạo vét đã góp phần nâng cao năng lực tưới, tiêu, xổ phèn, cải tạo đất, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển.
Qua việc tổng quan vấn đề nghiên cứu và phân tích lựa chọn, nghiên cứu sẽ áp dụng mô hình thủy lực MIKE modul HD để mô phỏng dòng chảy lũ các năm điển hình và modul AD được sử dụng để mô phỏng nhiễm mặn vùng ĐTM theo các kịch bản hiện trạng, kịch bản hiện trạng trong bối cảnh nước biển dâng và kịch bản khai thác nhằm đánh giá ảnh hưởng của hệ thống đê bao đến dòng chảy mặt, xâm nhập mặn từ đó đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 15844/2018) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Đ.T.V (NASATI)