Nghiên cứu, rà soát các quy định về tài nguyên nước ở Việt Nam, đề xuất hướng điều chỉnh bổ sung để phù hợp Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia
Cập nhật vào: Thứ năm - 14/12/2023 00:02
Cỡ chữ
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường. Chính vì tầm quan trọng của nước như vậy nên năm 1959, Đại hội đồng Liên hợp quốc quyết định 'khởi động nghiên cứu sơ bộ về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia.
Đến ngày 21/5/1997, Đại hội đồng Liên Hợp quốc khóa 41 đã thông qua Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy (sau đây gọi tắt là Công ước). Phạm vi điều chỉnh của Công ước gồm việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia và nước của chúng cho các mục đích trừ giao thông thủy, các biện pháp bảo vệ, bảo tồn và quản lý có liên quan đến việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia.
Việt Nam nằm ở hạ nguồn các con sông liên quốc gia lớn, với khoảng 63% tổng lượng nước trung bình hàng năm được sản sinh từ nước ngoài. Điều này cho thấy, tài nguyên nước của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào việc bảo vệ, khai thác, sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn. Do đó, ngày 15/4/2014, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 818/2014/QĐCTN về việc gia nhập Công ước. Theo đó, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 35 của công ước, giúp cho Công ước có hiệu lực sau 17 năm được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua.
Nội dung của Công ước gồm 7 phần, 37 điều và 1 phụ lục liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tài nguyên nước (TNN), đa dạng sinh học, giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại... Theo quy định của Công ước, Việt Nam có rất nhiều quyền nhưng cũng có nhiều nghĩa vụ, trách nhiệm. Vì vậy, cần phải rà soát sự phù hợp của pháp luật trong nước với Công ước để từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cho phù hợp.
Xuất phát từ thực tiễn đó, ThS. Nguyễn Thị Phương và nhóm nghiên cứu tại Cục Quản lý Tài nguyên nước đã thực hiện “Nghiên cứu, rà soát các quy định, quy phạm pháp luật về tài nguyên nước ở Việt Nam, đề xuất hướng điều chỉnh bổ sung để phù hợp Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy” với mục tiêu: Đánh giá được pháp luật về tài nguyên nước Việt Nam với Công ước và xác định được những nội dung của Công ước chưa được thể chế hóa trong pháp luật; Đề xuất được hướng điều chỉnh, bổ sung nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước ở Việt Nam cho phù hợp với nội dung của Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy.
Việt Nam có 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên. Các sông suối này nằm trong 108 lưu vực sông được phân bố và trải dài trên cả nước với tổng diện tích lưu vực khoảng 1.168.420 km2, trong đó 837.430 km2 (chiếm 71,7%) nằm ở nước ngoài, chỉ có 330.990 km2 (chiếm 28,3%) diện tích lưu vực nằm trong lãnh thổ nước ta.
Trong tổng số 108 lưu vực sông có 33 lưu vực sông lớn, liên tỉnh, với 3.140 sông (chiếm 91% số lượng sông của cả nước), tổng diện tích lưu vực nằm trong lãnh thổ nước ta khoảng 306,44 nghìn km2, bằng 92,6% diện tích đất liền của nước ta. Trong đó, có 13 lưu vực sông lớn và quan trọng, gồm: lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn - Hà Thanh, Ba, Sê San, Srê Pốk, Đồng Nai, Mê Công.
Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là các sông có liên quan đến nước ngoài, các sông suối này phân bố trải dài dọc biên giới từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, thuộc địa bàn toàn bộ 25 tỉnh biên giới. Theo số liệu thông kê sơ bộ, nước ta có 206 sông, suối lớn nhỏ, chiếm khoảng 8% tổng số sông, suối cả nước; trên 1.100 km đường biên giới là sông, suối, chiếm khoảng 24,7% tổng chiều dài đường biên giới trên bộ.
Như vậy, tài nguyên nước (TNN) của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào việc bảo vệ, khai thác, sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn và việc giải quyết các vấn đề nguồn nước quốc tế có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước cho Việt Nam. Các quy định của Công ước là cơ sở pháp lý quan trọng để các quốc gia có chung nguồn nước thương lượng, giải quyết những vấn đề phát sinh trong việc khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước và có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam.
Quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài “Nghiên cứu, rà soát các quy định, quy phạm pháp luật về tài nguyên nước ở Việt Nam, đề xuất hướng điều chỉnh bổ sung để phù hợp Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy” đã thực hiện theo trình tự từ tổng quan, phương pháp luận; phân tích đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam với nội dung Công ước; xác định những nội dung của Công ước chưa được thể chế hóa trong pháp luật; hướng điều chỉnh, bổ sung nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước ở Việt Nam cho phù hợp với nội dung của Công ước.
Kết quả: đề tài đã thực hiện những nội dung sau:
1. Phân tích đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam với nội dung Công ước để xác định những nội dung của Công ước chưa được nội luật hóa hoặc nội luật hóa chưa đầy đủ, cụ thể như sau:
- Nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Việt Nam tham gia và sử dụng công bằng và hợp lý theo quy định tại Điều 5 của Công ước.
- Nội dung đề nghị nghiên cứu để bổ sung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Việt Nam trong việc trao đổi thường xuyên số liệu và thông tin theo quy định tại Điều 9 của Công ước.
- Tại Điều 11 của Công ước đã quy định việc trao đổi thông tin ảnh hưởng có thể của các dự án đề xuất đến hiện trạng của một nguồn nước liên quốc gia, được quy định tại Điều 8 của Công ước. Theo đó, sẽ bao gồm cả những thông tin bất lợi và có lợi nhưng Luật TNN và Nghị định số 201/2013/NĐ-CP không quy định những thông tin này.
- Pháp luật TNN đã quy định về việc tham vấn ý kiến của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân có liên quan trước khi quyết định thực hiện dự án nhưng quy định này chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân thực hiện dự án mà không áp dụng cho việc thông báo với các quốc gia có chung nguồn nước với Việt Nam. Nhưng pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ về thời hạn lấy ý kiến cộng đồng dân cư nên khi thực hiện, nhiều chủ đầu tư cũng đã bỏ qua bước này hoặc có thực hiện nhưng chưa hiệu quả.
- Về trách nhiệm của chủ dự án không được thực hiện dự án trong thời gian chờ trả lời
2. Về hướng điều chỉnh, bổ sung nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước ở Việt Nam cho phù hợp với nội dung của Công ước
Nhóm nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung nội dung vào 02 Luật, 02 Nghị định, 02 Thông tư, cụ thể như sau:
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của 02 Luật có liên quan đến nội dung Công ước
- Luật TNN năm 2012, nhóm nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều khoản sau:
- Sửa đổi khoản 7 Điều 2 giải thích từ “nguồn nước liên quốc gia” theo hướng: Nguồn nước liên quốc gia là nguồn nước chảy từ lãnh thổ Việt Nam sang lãnh thổ nước khác hoặc từ lãnh thổ nước khác vào lãnh thổ Việt Nam.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18846/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)