Nghiên cứu phân bố dòng chảy tại lưu vực sông Mê Công trong điều kiện phát triển sử dụng nước tưới của các quốc gia lưu vực sông Mê Công phục vụ cho công tác đàm phán của Việt Nam và chia sẻ nguồn nước trong thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 và Công ước 19
Cập nhật vào: Thứ tư - 15/12/2021 09:36
Cỡ chữ
Sông Mê Công là một trong những sông lớn của thế giới và là nguồn tài nguyên nước đáng kể nhất ở Đông Nam Á. Sông Mê Công có chiều dài 4.800 km, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy qua tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, qua các nước Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia trước khi vào Việt Nam. Sông có lưu lượng dòng chảy trung bình năm khoảng 15.000 m3/s và tổng lượng dòng chảy hàng năm khoảng 475 tỉ m3 vào Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam (MRC, 2004).
Lưu vực sông Mê Công với diện tích 795.000 km2 là nơi sinh sống của trên 65 triệu người, có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế của các nước ven sông. Sông Mê Công hiện nay và trong tương lai đóng vai trò quan trọng không chỉ trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia ven sông mà còn cả trong sự phát triển hợp tác kinh tế và chính trị trong khu vực. Nhu cầu khai thác và sử dung tài nguyên nước và tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mê công tại các nước ven sông sẽ ngày càng lớn và chắc chắn sẽ tăng đáng kể trong tương lai, gây những tác động không nhỏ đến khai thác và sử dung tài nguyên nước. Do đó việc chia sẻ công bằng, hợp lý, phát triển bền vững và bảo vệ nguồn tài nguyên nước và tài nguyên liên quan đã và đang trở thành một đòi hỏi lớn thiết thực.
ĐBSCL hàng năm bị ngập lụt một vùng rộng lớn ở phía Bắc do lũ sông Mê Công tràn về. Diện tích ngập lụt từ 1,2 đến 1,4 triệu ha đối với năm lũ nhỏ và khoảng 1,9 triệu ha với năm lũ lớn. Thời gian ngập lụt từ 2 đến 6 tháng, với độ ngập sâu từ 0,5 đến 4,0m. Tuy nhiên, sông Mê Công là nguồn nước ngọt quan trọng để cung cấp cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dân sinh, đưa lại nguồn phù sa phong phú bồi đắp cho đồng ruộng và nguồn thủy sản nước ngọt dồi dào. ĐBSCL có một vị trí rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, là chìa khoá chính trong chiến lược an ninh lương thực Quốc gia. Với tiềm năng nông nghiệp to lớn, ĐBSCL luôn đóng góp 50% tổng sản lượng lương thực Quốc gia và đã được xác định là một vùng đảm bảo an ninh lương thực cho toàn quốc.
Tuy nhiên, nằm ở hạ lưu vùng châu thổ sông Mê Công có nhiều thuận lợi, nhưng cũng tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế về điều kiện tự nhiên, lại ảnh hưởng bởi chế độ thuỷ văn, các khai thác từ thượng lưu và dao động của thuỷ triều biển Đông-biển Tây nên ĐBSCL luôn phải đối mặt với các mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và phát triển bền vững môi trường sinh thái. Đây là nơi nhạy cảm nhất và chịu tác động sâu sắc nhất trước những biến động do khai thác tài nguyên nước và tài nguyên liên quan ở các nước thượng lưu. Chính vì vậy, đề tài “Nghiên cứu phân bố dòng chảy tại lưu vực sông Mê Công trong điều kiện phát triển sử dụng nước tưới của các quốc gia lưu vực sông Mê Công phục vụ cho công tác đàm phán của Việt Nam và chia sẻ nguồn nước trong thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 và Công ước 1997 của Liên hợp quốc” do Cơ quan chủ trì Viện Khoa học tài nguyên nước cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Anh Đức thực hiện với mục tiêu: Xác định được phân bố dòng chảy tại lưu vực sông Mê Công và những biến động do phát triển sử dụng nước tưới của các quốc gia hạ lưu vực sông Mê Công; Đề xuất được các nội dung và giải pháp cho công tác đàm phán của Việt Nam về chia sẻ nguồn nước trong thực hiện Hiệp định Mê Công 1995 và Công ước 1997 của Liên hợp quốc.
Do tính phức tạp của vấn đề, chưa có nhiều nghiên cứu ở tầm lưu vực, kể cả ở Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC) về cân bằng nước cho cả lưu vực, do vậy chưa đánh giá được tính bền vững về nguồn nước và chia sẻ hợp lý nguồn nước cho mỗi quốc gia. Tính cho đến nay, mới chỉ có một vài nghiên cứu sơ khởi của Uỷ hội về vấn đề này. Chẳng hạn, trong một báo cáo hàng năm của MRC (MRC Year book - 1987), đưa ra bản đồ về đóng góp dòng chảy của các sông nhánh, tuy nhiên bản đồ này còn rất sơ lược mới chỉ xác định đóng góp dòng chảy trên một vài nhánh sông, chưa thể hiện đầy đủ, chính xác về cân bằng nước cho cả lưu vực.
Trong chương trình sử dụng nước WUP năm 2006 của MRC (Synopsis of the Mê Công River System - 2006) có tính toán cân bằng nước trên lưu vực nhưng cũng vẫn còn rất sơ lược, chưa thể hiện đầy đủ, chính xác về cân bằng nước cho cả lưu vực và đóng góp dòng chảy của các sông nhánh (Error! Reference source not found.). Do nhu cầu nước trên lưu vực chưa được nghiên cứu đồng bộ giữa các quốc gia, chưa xét thật đầy đủ các đối tượng sử dụng nước cũng như cơ sở dữ liệu toàn lưu vực còn hạn chế, nhất là phần Trung Quốc. Đặc biệt, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào liên quan đến ảnh hưởng của các phát triển sử dụng nước tưới đến biến động dòng chảy trên toàn lưu vực sông nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng.
ĐBSCL có một tầm quan trọng đặc biệt đến chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho các quốc gia trong vùng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực. Tuy nhiên, các hoạt động phát triển kinh tế xã hội trong vùng ĐBSCL phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước sông Mê Công, đặc biệt trong mùa khô khi hạn hán và xâm nhập mặn (đối khi tới 50% diện tích) đã gây cản trở không những các hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn ảnh hưởng lớn tới đời sống dân sinh và các hoạt động sử dụng nước khác.
Hiện nay lưu vực sông Mê Công đang phải đối mặt với những thách thức lớn do sự gia tăng sử dụng nước và biến đổi khí hậu. Để áp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế, các nước thượng lưu sông Mê Công đã và đang đẩy mạnh các hoạt động đầu tư phát triển thủy điện, đặc biệt các phương án phát triển thủy điện trên dòng chính sông Mê Công. Phía trên thượng nguồn, Trung Quốc đang triển khai kế hoạch xây dựng 14 nhà máy thuỷ điện với tổng công suất lắp đặt là 23.000 MW bao gồm hai giai đoạn: Giai đoạn 1 nhằm thực hiện chiến lược “8 đập, 2 hồ” dự kiến hoàn thành vào năm 2020; và Giai đoạn 2 dự kiến đến năm 2040 sẽ hoàn thành tiếp 6 nhà máy ở thượng nguồn sông Lan Thương. Ở hạ lưu vực sông Mê Công, các quốc gia Campuchia, Lào và Thái Lan cũng đang tích cực triển khai nghiên cứu và lập kế hoạch xây dựng 11 công trình, trong đó 7 công trình của Lào, 2 ở biên giới Thái Lan - Lào và 2 ở Campuchia. Ngoài ra, Thái Lan cũng có những ý tưởng sử dụng nước và chuyển nước ra ngoài lưu vực nhằm đáp ứng nhu cầu nước tưới cho vùng đồng bằng trung tâm (lưu vực sông Chao Phraya) và vùng Đông Bắc Thái Lan.
Như vậy có thể thấy chế độ dòng chảy của sông Mê Công và đặc biệt của ĐBSCL sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn do những hoạt động phát triển ở phía Thượng lưu. ĐBSCL rất cần lũ để phát triển và nhất là cần duy trì một dòng chảy kiệt đủ để đảm bảo ổn định các mặt sản xuất, đời sống và môi trường, thì biến đổi khí hậu và phát triển thượng lưu là nguy cơ cao nhất. ĐBSCL sẽ phải đối mặt với sự bất thường lớn hơn của lũ, của dòng chảy mùa khô ngày càng nhỏ, của mặn xâm nhập sâu hơn, nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm và chất lượng nước ngày càng suy giảm.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 16983/2019) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Đ.T.V (NASATI)