Nghiên cứu kỹ thuật phục hồi rừng Mạy chả (Arundinaria sp) tại khu vực Tây Bắc nhằm cung cấp nguyên liệu bền vững
Cập nhật vào: Thứ năm - 19/06/2025 13:06
Cỡ chữ
Tre trúc là một nhóm thực vật thân xanh đa niên thân gỗ, rễ chùm, bên trong rỗng, phân thành nhiều đốt, trên thân tre có các mấu mắt. Tre thuộc bộ Hòa thảo, phân họ Tre, tông Tre (Bambuseae), một số loài của nhóm này rất lớn, và được coi là lớn nhất trong bộ Hòa thảo. Mạy chả (Arundinaria sp.) là một loài thuộc họ tre trúc, mọc rải rác trong vùng rừng tự nhiên bị thoái hoá và dọc đường đi ở các tỉnh Tây Bắc nói chung, phổ biến là ở huyện Điện Biên và huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Trên thế giớí Mạy chả phân bố ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Vân Nam, Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.

Mạy chả là loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị, có khả năng cải thiện đời sống kinh tế của người dân địa phương dựa vào nhu cầu xuất khẩu thân khí sinh sang các nước châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan,… Thân cây Mạy chả được Nhật Bản nhập khẩu để dùng làm cọc cắm cho cây trồng nông nghiệp và làm vườn trong đó 98% là nhập từ thị trường Trung Quốc. Năm 2015 Công ty USUI thông qua Công ty TNHH thương mại xuất khẩu VJC ở Điện Biên nhập khẩu sản phẩm này bán tại các cửa hàng ở Nhật Bản cho thấy sản phẩm này được đón nhận vì có chất lượng cao (dày, và chắc) và giá thấp hơn so với sản phẩm từ Trung Quốc. Nhận thấy tiềm năng của Mạy chả Công ty bắt đầu sản xuất, chế biến và kinh doanh Mạy chả tại tỉnh Điện Biên từ năm 2015 với mục đích đảm bảo nguồn cung ổn định và đa dạng hóa các quốc gia sản xuất cũng như tạo ra một ngành công nghiệp tại tỉnh Điện Biên để cải thiện sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số, giảm việc đốt rừng làm nương rẫy của người dân địa phương (Usui Nochikusan., Ltd., 2021).
Tuy nhiên, hiện tại ở khu vực Tây Bắc kinh doanh cây Mạy chả vẫn theo hướng tự phát. Mạy chả mọc tự nhiên trong rừng nghèo và nghèo kiệt, xen trong rừng thứ sinh phục hồi giàu và trung bình được người dân khai thác rồi bán cho các đầu mối thu mua mà chưa quan tâm tuổi khai thác, chưa nắm rõ tiêu chuẩn cây khai thác, kỹ thuật khai thác. Việc trồng rừng nguyên liệu, đặc biệt là thâm canh rừng trồng còn chưa được chú ý. Đặc biệt việc phát triển mở rộng diện tích trồng loài cây này gặp khó khăn do nhân giống bằng gốc rất hạn chế về số lượng, đến nay chưa có một nghiên cứu bài bản nào về nhân giống bằng các phương pháp khác như giâm hom hoặc nuôi cấy mô, nên trong tương lai số lượng giống cung cấp cho việc mở rộng trồng rừng nguyên liệu loài cây này sẽ không đáp ứng được. Như vậy, việc kinh doanh cây Mạy chả còn thiếu các thông tin về đặc điểm sinh học của loài cây cũng như các biện pháp kỹ thuật về nhân giống, gây trồng và phục hồi rừng tự nhiên.
Để góp phần cung cấp thêm những thông tin cần thiết phục vụ cho việc phát triển và mở rộng kinh doanh cây Mạy chả thì việc nghiên cứu các kỹ thuật phục hồi rừng Mạy chả là rất quan trọng. Xuất phát từ những lý do nêu trên, Chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Lê Xuân Trường cùng nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Lâm nghiệp thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật phục hồi rừng Mạy chả (Arundinaria sp) tại khu vực Tây Bắc nhằm cung cấp nguyên liệu bền vững” với mục tiêu Phục hồi rừng Mạy chả để tạo vùng nguyên liệu bền vững cho sản xuất sản phẩm loài cây này xuất khẩu, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân và hạn chế hiện tượng phá rừng làm nương rẫy ở các tỉnh Tây Bắc.
Cây Mạy chả tái sinh, sinh trưởng và phát triển tại khu vực nghiên cứu với mật độ dao động từ 46.000 đến 72.500 cây/ha, đường kính gốc trung bình 0,59 đến 1,12cm, chiều cao trung bình từ 1,21 đến 1,94m với tỷ lệ cây sinh trưởng xấu còn khá cao, xấp xỉ 40% tổng số cây.
Tổ thành tầng cây cao nơi có loài Mạy chả phân bố đa số là các loài cây ưa sáng, tái sinh phục hồi sau khai thác kiệt hoặc sau nương rẫy với các loài cây phổ biến như: Dẻ trắng, Vối thuốc, Hu đay, Ba soi. Tổ thành rừng của khu vực nghiên cứu nơi có loài Mạy chả phân bố khá đa dạng và phong phú.
Độ tàn che tầng cây cao dao động từ 0,3 đến 0,9. Độ tàn che của tầng cây cao của trạng thái rừng nghèo và nghèo kiệt thấp, từ 0,3 đến 0,4 còn độ tàn che ở trạng thái rừng giàu và trung bình khá cao, đạt từ 0,8 đến 0,9.
Đất ở khu vực nghiên cứu tầng còn dầy, chưa bị xói mòn nhiều, vẫn còn tính chất đất rừng nhưng hàm lượng dinh dưỡng trong đất không cao, đất đã bị rửa trôi các chất dinh dưỡng.
Các lâm phần nơi Mạy chả phân bố có đường kính ngang ngực bình quân dao động từ 11,95 cm đến 23,51 cm; chiều cao vút ngọn bình quân từ 9,25 m đến 24,07 m; chiều cao dưới cành bình quân từ 4,72 m đến 15,81 m và đường kính tán bình quân từ 2,70 m đến 7,42 m.
Mật độ cây tầng cây cao dao động từ 190 cây/ha đến 225 cây/ha. Chất lượng cây rừng ở các lâm phần có số cây tốt chiếm tỷ lệ khá cao.
Tổng tiết diện ngang tầng cây cao dao động từ 9,0 m2/ha đến 35,6 m2/ha. Trữ lượng rừng dao động từ 37,3 m3/ha đến 324,7 m3/ha.
Các trạng thái rừng có trữ lượng rất đa dạng, từ rừng nghèo kiệt đến rừng giàu.
Mạy chả tại khu vực nghiên cứu có giá trị sử dụng chủ yếu từ thân khí sinh làm nguyên liệu cho chế biến sản phẩm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp để xuất khẩu. Ngoài ra người dân địa phương còn dùng thân Mạy chả để làm hàng rào, làm củi đun và khai thác măng làm thức ăn. Mạy chả có tiềm năng làm nguyên liệu xuất khẩu rất lớn, hứa hẹn có triển vọng đem lại giá trị kinh tế cao từ nguồn tài nguyên này.
Hiện nay trên địa bàn nghiên cứu chưa có chính sách quản lý riêng đối với Mạy chả. Mạy chả được quản lý như đối với các loại lâm sản ngoài gỗ khác theo Luật Lâm nghiệp và các quy định của địa phương. Phần lớn các hộ gia đình đều nhất trí tham gia trồng rừng Mạy chả cung cấp nguyên liệu nếu có chủ trương của chính quyền và cam kết thu mua sản phẩm của doanh nghiệp. Mạy chả có thể được nhân giống từ gốc mang thân ngầm hay từ thân ngầm. Có thể trồng rừng mới hoặc phục hồi rừng Mạy chả. Mạy chả cần được bảo vệ, chăm sóc để có được sản lượng ổn định, cao, chất lượng tốt, nâng giá trị xuất khẩu sản phẩm. Người dân địa phương có kiến thức bản địa với những hiểu biết nhất định trong quản lý tài nguyên Mạy chả như sử dụng thân khí sinh làm cần câu, làm hàng rào, làm củi đun và khai thác măng làm thức ăn.
Từ những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng đến tỷ lệ sinh măng, ra rễ của hom Mạy chả ta thấy loại thuốc NAA 50 ppm và thuốc IBA 200ppm cho kết quả là tốt nhất. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của loại chất điều hòa sinh trưởng đến chất lượng bộ rễ thì công thức sử dụng IBA 500ppm cho kết quả chất lượng bộ rễ tốt nhất sâu đó đến công thức sử dụng IBA 200ppm. Tuy nhiên sự khác biệt về chỉ số sinh măng, ra rễ ở hai công thức này không rõ rệt do vậy kết hợp cả hai tiêu chí tỷ lệ sinh măng, ra rễ và chất lượng bộ rễ thì sử dụng IBA 200ppm trong giâm hom thân ngầm Mạy chả là phù hợp nhất trong các công thức thí nghiệm.
Hom tuổi 1 cho kết quả tỷ lệ sinh măng, ra rễ là cao nhất. Hom thân ngầm Mạy chả tuổi 2 cho chất lượng bộ rễ của hom giâm tốt nhất. Tuy nhiên xét về tổng thể thì hom tuổi 1 cho tỷ lệ sinh măng, ra rễ là cao hơn hẳn so với hai loại hom còn lại và chất lượng bộ rễ mặc dù có sự sai khác nhưng cũng không kém nhiều so với hom tuổi 2 và tuổi 3 nên trong thực tiễn nên sử dụng hom tuổi 1 để giâm hom sản xuất cây con.
Ruột bầu tầng đất mặt kết hợp 5% NPK 10:5:5 cho kết quả là tốt nhất. Về chất lượng bộ rễ thì ruột bầu tầng đất mặt kết hợp 5% NPK 10:5:5 cho kết quả chất lượng bộ rễ tốt nhất. Do vậy trong giâm hom thân ngầm Mạy chả thì ruột bầu tầng đất mặt kết hợp 5% NPK 10:5:5 là phù hợp nhất.
Công thức ruột bầu 95% đất tầng mặt với 5% NPK 10:5:5 cho kết quả là cao nhất. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng bộ rễ cũng cho kết quả tốt nhất. Khi giâm hom Mạy chả nên sử dụng bầu dinh dưỡng với thành phần là 95% đất tầng mặt và 5% NPK 10:5:5 là phù hợp nhất trong các công thức thí nghiệm.
Mạy chả tại các mô hình đã bị thoái hóa, các chỉ tiêu sinh trưởng đều kém nếu so với các sinh trưởng trung bình của Mạy chả ở những nơi ít bị tác động.
Sinh trưởng đường kính gốc, chiều cao vút ngọn, mật độ và chất lượng sinh trưởng của Mạy chả ở các mô hình rừng phục hồi với các biện pháp tác động khác nhau đã có sự sai khác nhất định.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20754/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
Đ.T.V (NASTIS)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








