Nghiên cứu khung chính sách phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo vùng
Cập nhật vào: Thứ sáu - 01/03/2024 00:02
Cỡ chữ
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đổi mới sáng tạo (ĐMST) giữ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, đồng thời là yếu tố không thể thiếu góp phần tạo thêm việc làm. Nói rộng hơn, cả lý thuyết và thực tế đã qua đều cho thấy các nước sẽ đi theo nhiều quỹ đạo phát triển khác nhau, tùy thuộc vào khả năng nhận biết và nắm bắt tiến bộ công nghệ của họ. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn vừa qua được duy trì liên tục ở mức độ tương đối cao chủ yếu tập trung vào diện rộng (tăng quy mô đầu vào) mà chưa đi vào chiều sâu. Tăng trưởng theo chiều sâu phải tập trung vào nâng cao năng suất lao động nói chung và năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) nói riêng. Động lực tăng năng suất quan trọng nhất chính là ĐMST, cụ thể là ĐMST được dẫn dắt bởi công nghệ. Kinh nghiệm của các nước đã thành công cho thấy phải đổi mới mô hình tăng trưởng từ diện rộng sang chiều sâu, trong đó nâng cao năng suất lao động là trọng tâm, phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ và ĐMST, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định để nâng cao năng suất. Muốn khuyến khích ĐMST cần phải có nguồn tài chính và tăng cường hệ thống ĐMST và các thành phần của hệ thống. Thành phần của hệ thống ĐMST bao gồm các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức trung gian hỗ trợ trao đổi tri thức.
Cách tiếp cận hệ thống ĐMST vùng có thể xem xét để xây dựng chính sách ĐMST ở quy mô khu vực. Các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) được Đảng và Nhà nước xác định là các vùng động lực làm đầu tàu lôi kéo sự phát triển của các vùng khác trên cả nước. Việc thúc đẩy hoạt động ĐMST ở cấp độ quốc gia có thể được cụ thể hóa tại các vùng kinh tế trọng điểm này. Các chính sách quốc gia về đổi mới sáng tạo đặt ra rất nhiều mục tiêu về phát triển đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo ở các vùng/địa phương tuy nhiên triển khai trong thực tiễn còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, có một loạt câu hỏi đặt ra là các tác nhân trong hệ thống ĐMST vùng ở Việt Nam là gì? Các tác nhân đó tương tác với nhau như thế nào trong hệ thống ĐMST vùng? Hiện đã có các chính sách gì thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ĐMST vùng? Những ưu điểm và hạn chế của các chính sách đó cần được phát huy và cần điều chỉnh các nhóm chính sách nào để phát triển hệ thống ĐMST vùng ở Việt Nam?
Nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề xuất khung chính sách phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo vùng ở Việt Nam; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hệ thống đổi mới sáng tạo vùng; nhận dạng, phân tích thực trạng hệ thống ĐMST ở vùng đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam; đề xuất khung chính sách phát triển hệ thống ĐMST vùng ở Việt Nam, ThS. Cao Thị Thu Anh cùng các cộng sự tại Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ - Học viện Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu khung chính sách phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo vùng”.
Sau một thời gian triển khai thực hiện, đề tài đưa ra các kết luận như sau:
Khái niệm hệ thống ĐMST vùng vừa có ý nghĩa về mặt lý luận và cũng có giá trị về mặt thực tiễn. Về mặt lý luận, các quốc gia châu Âu dùng lý luận về hệ thống ĐMST vùng để thay thế cho hệ thống ĐMST quốc gia trong việc giải thích về sự phát triển của một số vùng nhưng về thực tiễn, hệ thống ĐMST vùng vẫn có thể là một phần của hệ thống ĐMST quốc gia và áp dụng cách tiếp cận này có thể giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các vùng dựa trên ĐMST thông qua việc nhận dạng các lợi thế cạnh tranh của mỗi vùng. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy hệ thống ĐMST vùng chỉ có thể phát triển nếu gắn với sự phát triển kinh tế của các vùng, được hình thành từ các cụm phát triển công nghiệp của một số ngành tại những vùng nhất định.
Hệ thống đổi mới sáng tạo vùng trong điều kiện ở Việt Nam chỉ có tính độc lập tương đối trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ thống ĐMST vùng chỉ có thể phát huy hiệu quả về mặt thúc đẩy hoạt động ĐMST khi nó được đặt trong mối quan hệ với hệ thống ĐMST ngành tại vùng đó. Về mặt lý luận, hệ thống đổi mới sáng tạo vùng là một khuôn khổ chính sách có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm hoạch định các chính sách về đổi mới sáng tạo. Chính vì vậy việc thiết kế và ban hành chính sách về phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo vùng cần phải lưu ý ba yếu tố: (i) mô hình hệ thống đổi mới sáng tạo vùng; (ii) vai trò của các tác nhân trong hệ thống đổi mới sáng tạo vùng và (iii) chiến lược phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo vùng.
Thực tiễn ở đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam cho thấy, đặc thù của doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đa số. Cùng với các yếu tố khác như môi trường cạnh tranh còn trì trệ; hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới tại Việt Nam chỉ đang ở giai đoạn khởi đầu đối với nghiên cứu và phát triển cả ở khu vực nhà nước và tư nhân với đặc trưng của cấp độ chưa phát triển và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo khiến cho đầu tư của doanh nghiệp cho KH&CN còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Kinh phí từ Nhà nước dành cho KH&CN của doanh nghiệp cũng ở mức thấp. Các khu vực nghiên cứu và đại học hay các tổ chức trung gian chưa thể đảm trách vai trò là tác nhân chủ đạo trong hệ thống ĐMST vùng như kinh nghiệm của một số quốc gia, do đó, để phát triển hệ thống ĐMST vùng cần xây dựng mô hình hệ thống ĐMST vùng dựa trên các doanh nghiệp sản xuất/chế biến lớn của một số ngành tại các vùng nhất định, thông qua đó thúc đẩy mối liên kết về ĐMST theo chuỗi giá trị của ngành. Các tác nhân thuộc khu vực khởi tạo và truyền bá tri thức (khu vực nghiên cứu và đại học và các tổ chức trung gian) sẽ hoạt động dựa trên nhu cầu về đổi mới sáng tạo của tác nhân trung tâm trung tâm là các doanh nghiệp lớn.
Khi đặt vấn đề về phát triển hệ thống ĐMST ở Việt Nam, đã có một số chính sách được ban hành tạo điều kiện để doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động ĐMST ngành, 60 tuy nhiên các chính sách đó cũng còn có những hạn chế nhất định trong việc ban hành và triển khai trong thực tiễn, do đó cần phải có những điều chỉnh nhất định. Đặc biệt quan trọng là phải có những quy hoạch tổng thể các vùng, đề ra các chiến lược về đổi mới sáng tạo cấp vùng và điều chỉnh, ban hành các chính sách thúc đẩy hoạt động ĐMST của doanh nghiệp. Các chính sách về ĐMST phải được vào các chính sách công nghiệp, đầu tư, thương mại; các giải pháp để làm cho các chính sách về ĐMST trở nên phù hợp và hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp.
Từ nghiên cứu của Đề tài đặt ra một số vấn đề cần phải nghiên cứu tiếp theo. Về lý thuyết đó là các chủ đề về:
- Vai trò của các tổ chức (chính thức và phi chính thức) trong sự phát triển của các hệ thống ĐMST vùng;
- Các chỉ số đo lường hiệu quả của hệ thống ĐMST vùng;
- Các nhân tố quyết định sự thành công của hệ thống ĐMST vùng;
- Vai trò của hệ thống ĐMST vùng trong sự phát triển của vùng và làm thế nào để thúc đẩy phát triển vùng thông qua hệ thống ĐMST vùng.
Về thực tiễn ở Việt Nam có thể tiếp tục chọn các nghiên cứu trường hợp khác ở Việt Nam để hoàn thiện các khuyến nghị về khung chính sách. Nghiên cứu về xây dựng chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cấp vùng cũng có thể nên lựa chọn để nghiên cứu ở Việt Nam trong thời gian tới cùng với đó là các nghiên cứu luận cứ khoa học và thực tiễn để nhà nước lựa chọn các ưu tiên chính sách đối với doanh nghiệp như mức độ ưu tiên giữa doanh nghiệp quy mô lớn, vừa so với doanh nghiệp quy mô nhỏ; ngành nghề và hoạt động KH&CN của từng ngành nghề được ưu tiên khi phát triển hệ thống ĐMST vùng.
Như vậy, đề tài đã đưa ra được một số vấn đề lý luận về hệ thống đổi mới sáng tạo vùng trong đó tập trung vào các nội dung khái niệm về hoạt động ĐMST, khái niệm hệ thống ĐMST, khái niệm vùng và khái niệm hệ thống ĐMST vùng. Các tác nhân trong hệ thống ĐMST vùng và mối liên kết giữa các tác nhân đó về mặt lý thuyết. Đề tài cũng đã mô tả thực trạng về các tác nhân trong hệ thống ĐMST vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ giữa các tác nhân trong trao dổi tri thức và mô tả và phân tích các chính sách phát triển hệ thống ĐMST vùng ở đồng bằng sông Cửu Long. Dựa trên các quan điểm về việc ban hành các chính sách phát triển hệ thống ĐMST vùng được đưa ra dựa trên các vấn đề lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực trạng hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài cũng đưa ra các khuyến nghị chính sách gồm các nhóm: Chính sách về việc hình thành hệ thống ĐMST vùng, chính sách về việc lựa chọn tác nhân chính trong hệ thống ĐMST vùng, chính sách về mô hình hệ thống ĐMST vùng ở Việt Nam và đề xuất khung chính sách phát triển hệ thống ĐMST vùng ở Việt Nam.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 19524/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
P.T.T (NASATI)