Nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gen cây Vù hương cung cấp gỗ lớn và tinh dầu tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ tư - 22/10/2025 13:06
Cỡ chữ
Vù hương thuộc chi Cinnamomum, họ Long não là loài thực vật đặc hữu của Việt Nam. Cây gỗ lớn, thường xanh, cao 20-30m, đường kính thân từ 70-90cm. Cây có biên độ sinh thái rộng, phân bố ở nhiều tỉnh thành trong cả nước như: Thanh Hoá, Ninh Bình, Hà Nội, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái,... Vù hương là loài cây gỗ quý, đa tác dụng, vừa cho gỗ vừa cho tinh dầu. Chính vì vậy trong suốt một thời gian dài, Vù hương bị khai thác cạn kiệt để lấy gỗ và các bộ phận thân, lá, rễ để trưng cất tinh dầu, dẫn tới số lượng cá thể ngoài tự nhiên bị suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là những cây trưởng thành có kích thước lớn. Do đó, Vù hương được Sách đỏ Việt Nam (2007) xếp vào nhóm có mức độ đe dọa sẽ nguy cấp (VU A1c) và cũng là loài thuộc Danh mục thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm (nhóm 2) của Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ.

Nhận thấy những giá trị đặc hữu, quý hiếm, giá trị kinh tế và nguy cơ thất thoát nguồn gen của loài Vù hương mà trong gần 20 năm trở lại đây đã có nhiều nhà khoa học ở trong nước quan tâm nghiên cứu về loài cây này. Kết quả của các nghiên cứu đã góp phần xác định được một số đặc điểm phân bố, sinh thái của loài cũng như nhân giống bằng phương pháp giâm hom. Tuy nhiên, chưa có các nghiên cứu về đa dạng di truyền của loài được thực hiện; còn ít các thông tin về hàm lượng, thành phần hóa học của tinh dầu Vù hương ở các xuất xứ khác nhau; chưa có các nghiên cứu tuyển chọn nguồn giống tốt cả về hình thái thân cây và hàm lượng, chất lượng tinh dầu... Từ những thực trạng trên, nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam do ThS. Nguyễn Viễn dẫn đầu, đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gen cây Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lec) cung cấp gỗ lớn và tinh dầu tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam” trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2022.
Đề tài hướng đến thực hiện mục tiêu đánh giá được giá trị nguồn gen của cây Vù hương để cung cấp gỗ lớn và tinh dầu; chọn được một số xuất xứ và gia đình sinh trưởng nhanh, chất lượng tốt; và xây dựng được quy trình nhân giống và kỹ thuật trồng.
Dưới đây là một số kết quả nổi bật của đề tài:
- Đã đánh giá về giá trị của cây Vù hương: Gỗ Vù hương bền đẹp, được ưa chuộng để làm đồ mộc cao cấp, trong khi tinh dầu được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực từ y học đến mỹ phẩm, thực phẩm. Hàm lượng tinh dầu trong rễ trung bình đạt từ 1,66% đến 3,24%, với thành phần chính của tinh dầu là Safrol (chiếm trên 86%). Hàm lượng tinh dầu trong lá thấp hơn rễ, chỉ đạt 0,12% đến 0,26% với thành phần chính là Germacrence B, dao động từ 23,73-67,33%. Các quần thể Vù hương có mức độ da dạng di truyền khá cao nhưng lại có sự chênh lệch khá lớn giữa các xuất xứ (cao nhất là xuất xứ Phú Thọ và thấp nhất ở xuất xứ Yên Bái).
- Chọn lọc được 51 cây trội cho cả mục tiêu lấy gỗ và tinh dầu tại 03 vùng sinh thái, trong đó Vùng Đông Bắc 30 cây trội; vùng Tây Bắc 9 cây trội; và vùng Bắc Trung Bộ 12 cây trội.
- Xây dựng vườn giống kết hợp khảo nghiệm giống Vù hương: Dựa vào độ vượt 10% so với trung bình khảo nghiệm có thể bước đầu chọn ra xuất xứ Phú Thọ và một số gia đình như: PT05, PT10, TH17 (cho vùng Đông Bắc), PT02, PT05, PT12 (cho vùng Tây Bắc), và PT02, PT26 (cho vùng Bắc Trung Bộ).
- Nghiên cứu bổ sung kỹ thuật nhân giống cây Vù hương: Tỷ lệ ra rễ của hom Vù hương cao nhất khi sử dụng thuốc kích thích IBA 1,5%, tiếp đến NOA 1%. Thời vụ giâm hom Vù hương tốt nhất là Vụ hè. Hạt Vù hương khá đồng đều, khối lượng 1.000 hạt dao động từ 0,35-0,38 kg, trung bình là 2.778 hạt/kg. Độ thuần hạt giống của các xuất xứ dao động 80,7-85,2%, trung bình là 83,4%. Công thức ruột bầu 99% đất + 1% phân NPK (16:16:8) và 98% đất + 2% phân NPK (16:16:8) cho tỷ lệ sống, sinh trưởng D0 và Hvn của cây con Vù hương tốt nhất.
- Xây dựng mô hình trồng thâm canh cây Vù hương: Vù hương trồng bằng cây hạt sinh trưởng tốt hơn sử dụng cây hom. Ở giai đoạn này rừng chưa khép tán nên mật độ chưa có ảnh hưởng rõ rệt tới sinh trưởng của rừng trồng Vù hương. Công thức bón 0,2 kg NPK/hố + 1kg phân hữu cơ vi sinh là có triển vọng ở cả 3 vùng sinh thái. Trồng rừng bằng cây đạt 9-12 tháng tuổi cho tỷ lệ sống và sinh trưởng tốt hơn so với cây xuất vườn chỉ đạt 6 tháng tuổi.
Kết quả nghiên cứu mở ra một hướng mới cho việc triển khai ứng dụng rộng rãi phương pháp sinh học phân tử hiện đại trong việc chọn tạo giống Vù hương có năng suất và chất lượng tinh dầu cao, góp phần phục vụ công tác chọn tạo giống cây lâm nghiệp đạt năng suất cao.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (Mã số 21342/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








