Nghiên cứu đánh giá các tai biến địa chất và môi trường nghiêm trọng trong khai thác, chế biến một số khoáng sản chính ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp giảm thiểu thiệt hại
Cập nhật vào: Thứ hai - 06/05/2024 00:41
Cỡ chữ
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, khi mà nền kinh tế về cơ bản vẫn phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, và đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Tuy nhiên, khai thác và chế biến khoáng sản trong nhiều năm qua ở nước ta đã để lại nhiều bãi thải, moong khai thác và hồ chứa chất thải khổng lồ. Các tai biến do mất ổn định bãi thải và các sự cố môi trường liên quan đã từng xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng. Theo các kết quả nghiên cứu từ những năm 1960 đến nay của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường cho thấy môi trường các khu vực khai thác, chế biến khoáng sản, đặc biệt là kim loại màu ở phía Bắc nước ta như Mỏ chì kẽm Làng Hích, Mỏ chì kẽm Bản Thi, mỏ mangan Cao Bằng, mỏ thiếc Sơn Dương... môi trường đất thường có hàm lượng kim loại nặng vượt giới hạn cho phép từ 2 - 10 lần về chì, 1,5 - 5 lần về asen, 2 - 15 lần về kẽm...
Từ thực tế trên, PGS. TS. Nguyễn Văn Hoàng cùng các cộng sự tại Viện Địa Chất đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đánh giá các tai biến địa chất và môi trường nghiêm trọng trong khai thác, chế biến một số khoáng sản chính ở Việt Nam; đề xuất các giải pháp giảm thiểu thiệt hại và phòng chống tai biến” trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2021.
Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu sau: đánh giá được hiện trạng tai biến địa chất và môi trường nước mặt, nước dưới đất và đất nghiêm trọng trong khai thác, chế biến: than, apatit, bauxit và chì-kẽm các mỏ được lựa chọn; đánh giá được nguy cơ xảy ra các tai biến địa chất và môi trường nước mặt, nước dưới đất và đất nghiêm trọng trong khai thác, chế biến: than, apatit, bauxit và chì kẽm các mỏ được lựa chọn; đánh giá được rủi ro do các tai biến địa chất và ô nhiễm môi trường nước mặt, nước dưới đất và đất nghiêm trọng trong khai thác, chế biến: than, apatit, bauxit và chì kẽm các mỏ được lựa chọn; và đề xuất được các giải pháp phòng, chống các tai biến địa chất và ô nhiễm môi trường nước mặt, nước dưới đất và đất nghiêm trọng trong khai thác, chế biến: than, apatit, bauxit và chì kẽm các mỏ được lựa chọn.
Trên các khu vực nghiên cứu của đề tài, các loại hình tai biến địa chất và môi trường cụ được xác định và tập trung nghiên cứu, đồng thời cũng là giới hạn về phạm vi đối tượng nghiên cứu là:
- Tai biến trượt lở đất tại khai trường Cam Đường 2 thuộc apatit Cam Đường, trượt lở bãi thải than Phấn Mễ và trượt lở bờ hồ bùn đỏ nhà máy alumin Nhân Cơ;
- Tai biến sập sụt đất tại các khu vực các mỏ khai thác chì kẽm Chợ Đồn và khu vực xung quanh mỏ thanh Phấn Mễ;
- Tai biến môi trường xảy ra trực tiếp hoặc xảy ra gián tiếp (là hậu quả của các tai biến địa chất) tại khu vực nhà máy tuyển quặng apatit Cam Đường liên quan đến vỡ đập hồ quặng đuôi số 1; tai biến môi trường giao thông đường bộ và các công trình xây dựng dân dụng (công sở, trường học, nhà ở...), tai biến môi trường sử dụng đất và sản xuất nông lâm nghiệp, tai biến làm cạn kiệt môi trường tài nguyên nước, tai biến chất lượng môi trường đất và nước... tại tất cả các khu vực nghiên cứu là apatit Cam Đường, chì kẽm Chợ Đồn, than Phấn Mễ và bauxit Nhân Cơ.
Đề tài đã làm sáng tỏ nguyên nhân và cơ chế hình thành và phát triển các tai biến địa chất trên các khu vực nghiên cứu và xây dựng được các mô hình định lượng hóa các tai biến này. Bước đầu phát hiện thấy hiện tượng tích lũy kim loại nặng tại một số khu vực nghiên cứu của Đề tài. Một số kết quả của đề tài đã được kiểm chứng bằng các mô hình phân tích định lượng chính xác, trong khi một số kết quả chưa được kiểm chứng cho các khu vực đã nghiên cứu cũng như các khu vực khác. Các kết quả nghiên cứu của đề tài đã được công bố trên các tạp chí khoa học Quốc tế có uy tín và 02 bài báo trên các tạp chí khoa học Quốc gia có uy tín
Kết quả nghiên cứu góp phần hạn chế các tai biến địa chất và môi trường các khu vực khai thác chế biến khoáng sản, tránh được các thiệt hại do chúng gây nên nếu để xảy ra. Ngoài ra, kết quả của đề tài còn cung cấp cơ sở cho việc qui hoạch sử dụng đất, đặc biệt là các công trình dân dụng và nhà ở của người dân khu vực lân cận các mỏ khai thác chế biến khoáng sản.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19656/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)