Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ số đến hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ tư - 17/05/2023 11:03 Cỡ chữ
Có thể hiểu công nghệ số là công nghệ xử lý và truyền tải thông tin dưới dạng số hóa (0-1). Công nghệ này cho phép có thể xử lý, lưu trữ và truyền tải một lượng lớn thông tin một cách nhanh chóng. Theo Liên minh châu Âu, công nghệ số liên quan tới máy tính và ứng dụng phụ thuộc vào máy tính. Các công nghệ số hiện đại chính gồm Di động, Truyền thông xã hội, Điện toán đám mây và Phân tích dữ liệu liệu. Đây cũng là khái niệm dùng trong nghiên cứu này.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhìn nhận được xu thế tất yếu và thực tế đã ứng dụng công nghệ số trong thay đổi mô hình kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường kết quả kinh doanh. Chính phủ Việt Nam cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ số tại các tổ chức doanh nghiệp như một mục tiêu cần thực hiện để phát triển kinh tế quốc gia. Tuy vậy, việc thiếu các đánh giá định lượng rõ ràng sẽ có thể làm chùn bước doanh nghiệp, và gây khó khăn cho các cơ quan đề xuất và thực hiện chính sách trong việc đánh giá các chính sách đã thực hiện. Vì vậy, nhằm làm rõ tác động của việc ứng dụng công nghệ số tới hoạt động của doanh nghiệp bằng các phương pháp định lượng và dữ liệu tin cậy, nhóm nghiên cứu, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông - Bộ Thông tin và Truyền thông, do TS. Đặng Thị Việt Đức làm chủ nhiệm đã đề xuất thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ số đến hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam”.
Bằng việc phân tích các mô hình đánh giá mức độ ứng dụng ICT ở mức độ vĩ mô và đặc biệt là ở mức độ vi mô, nghiên cứu đã đề xuất một phương pháp đánh giá mức độ ứng dụng công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu cũng đã xây dựng mô hình và thực hiện khoảng hơn 600 mô hình gồm cả mô hình tổng thể và mô hình thành phần để kiểm định và đánh giá ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ số tới năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu đã kết hợp sử dụng dữ liệu về hỗ trợ phát triển công nghệ trong doanh nghiệp và dữ liệu thông tin chung về doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê với mẫu gồm 11.709 doanh nghiệp để thực hiện các tính toán và chạy mô hình.
Nghiên cứu này cũng giống như nhiều nghiên cứu khác về đánh giá ứng dụng ICT trong doanh nghiệp gặp khó khăn về dữ liệu. Việc sử dụng dữ liệu sẵn có của Tổng cục Thống kê làm hạn chế kết quả đạt được. Trong tương lai, nếu việc điều tra doanh nghiệp số lớn theo mô hình đề xuất được thực hiện, kết quả tính toán sẽ phản ánh tốt hơn thực trạng ứng dụng cũng như tác động của ứng dụng công nghệ số tới kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam. Sử dụng dữ liệu điều tra hướng mục đích rõ hơn cũng sẽ giúp mở được hộp đen về đường tác động cụ thể của công nghệ số tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp mà nghiên cứu này vẫn chưa làm được.
- Về mức độ ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp Việt Nam
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại Việt Nam, các doanh nghiệp chủ yếu đang ứng dụng ICT ở mức độ cơ bản cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 96% doanh nghiệp Việt Nam có sử dụng máy tính, internet và email cho kinh doanh. Tỷ lệ nhân viên sử dụng máy tính và internet trong doanh nghiệp lần lượt là 48% và 51%. Như vậy, cứ 2 nhân viên, sẽ có 1 nhân viên có sử dụng máy tính và internet. Khi xét tới các ứng dụng khác, kết quả thấp hơn. Tỷ lệ doanh nghiệp có xây dựng website riêng chỉ đạt 19%, tỷ lệ doanh nghiệp có sử dụng mạng xã hội cho hoạt động kinh doanh là 35% và chỉ có 7% doanh nghiệp có sử dụng ICT trong chia sẻ thông tin trong doanh nghiệp. Tổng điểm ứng dụng phần cứng và các ứng dụng công nghệ số cơ bản là 0,56/1. Kỹ năng ICT của nhân viên ở mức trung bình và khá đồng đều giữa các nhóm kỹ năng. Điểm chung bình của các kỹ năng ICT của nhân viên đạt 0,46, tức là 46% nhân viên đáp ứng được yêu cầu kỹ năng ICT của doanh nghiệp. Trong các kỹ năng, kỹ năng - kỹ năng nền tảng về công nghệ thông tin là có điểm số cao nhất. Việc ứng dụng các phần mềm chuyên sâu còn hạn chế. Chỉ 6% các doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng các phần mềm sản xuất này. Ngoài ra phần lớn các doanh nghiệp chưa tổ chức bộ phận chức năng chuyên trách về ICT. Điều này phản ánh nguồn lực hạn chế trong đầu tư ICT trong kinh doanh, nhưng mặt khác cũng thể hiện chiến lược và tầm nhìn về ứng dụng ICT trong doanh nghiệp còn ở mức thấp. Mức độ ứng dụng ICT cũng khác nhau theo sở hữu, quy mô doanh nghiệp, vùng kinh tế, theo ngành nghề kinh doanh, mức chi phí cho công nghệ số.
- Về ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ số tới năng suất lao động trong doanh nghiệp Việt Nam
Ứng dụng công nghệ số có tác động tích cực đến năng suất lao động của doanh nghiệp, thể hiện qua các biến về việc sử dụng phần cứng, tổ chức bộ phận IT, phần mềm, và kỹ năng công nghệ số của người lao động. Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất được thấy trong trường hợp ứng dụng phần cứng và ứng dụng công nghệ số cơ bản như máy tính, mạng internet và/hoặc mạng nội bộ, email. Mạng xã hội chưa thể hiện được mối quan hệ thuận chiều có ý nghĩa thống kê đối với năng suất lao động. Hệ thống thực thi sản xuất, ERP - Hoạch định nguồn lực doanh nghiệp, PLM - Quản lý vòng đời sản phẩm, PDM - Quản lý dữ liệu sản phẩm có tác động tới năng suất lao động mạnh mẽ hơn các phần mềm khác. Đây cũng là những phần mềm được ứng dụng phổ biến hơn trong các doanh nghiệp Việt Nam. Kỹ năng IT của nhân viên có ảnh hưởng dương tới năng suất lao động nhưng mức độ ảnh hưởng thấp hơn so với phần cứng và phần mềm.
Khi đi vào xem xét ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ số đối với năng suất lao động của doanh nghiệp theo các đặc trưng khác nhau, mức tác động cũng thể hiện sự khác nhau nhất định. Trong khi việc ứng dụng công nghệ số có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến năng suất lao động của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực chi phí công nghệ số thấp, tác động này không có ý nghĩa thống kê đối với các doanh nghiệp công nghệ số trong các lĩnh vực chi phí nhiều cho công nghệ số. Việc ứng dụng công nghệ số ở mức cơ bản có thể đem lại kết quả nhìn thấy, tuy vậy, việc ứng dụng công nghệ số tại trình độ cao hơn cần những thay đổi về mặt chiến lược, tổ chức của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam có lẽ chưa đạt được điều này nên chưa thể phát huy tác dụng làm tăng năng suất lao động. Khi xét theo quy mô tác động ứng dụng công nghệ số khá zích zắc. Trong khi phần cứng và ứng dụng cơ bản tác động tốt tới năng suất lao động của doanh nghiệp siêu nhỏ, thì phần mềm quản lý sản xuất kinh doanh chuyên sâu và kỹ năng IT của nhân viên lại thể hiện tác động tốt trong trường hợp doanh nghiệp vừa và lớn. Kết quả này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây và khẳng định thêm rằng ứng dụng công nghệ số cơ bản sẽ có tác động tốt tại các trường hợp trình độ quản lý và nguồn lực của doanh nghiệp thấp. Trường hợp các doanh nghiệp với quy mô cao hơn, trình độ quản lý cao hơn thì các ứng dụng phần mềm chuyên sâu và kỹ năng IT cao mới có thể tạo sự khác biệt trong năng suất lao động. Số liệu mô hình cho thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang được hưởng lợi tốt từ các ứng dụng phần mềm và kỹ năng IT của nhân viên cao. Mức ảnh hưởng từ ứng dụng công nghệ số tới năng suất lao động doanh nghiệp cao hơn trong trường hợp của doanh nghiệp nhà nước so với doanh nghiệp tư nhân nội địa. Theo ngành kinh tế, mặc dù các ngành dịch vụ là những ngành ứng dụng công nghệ số mạnh nhất, mô hình lại thể hiện quan hệ vững giữa ứng dụng công nghệ số với năng suất lao động trong trường hợp của ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Như vậy khẳng định lại là không hẳn việc ứng dụng công nghệ số cao sẽ mang lại ảnh hưởng cao hơn tới năng suất lao động của doanh nghiệp. Cuối cùng trong các vùng kinh tế, chỉ có hai vùng lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ thể hiện được mối quan hệ thuận chiều giữa hai chỉ tiêu xem xét. Điều này ủng hộ giả thuyết đã đặt ra trước đó là yếu tố cung cầu của thị trường giúp doanh nghiệp phát huy được tính kinh tế theo quy mô của ứng dụng công nghệ số.
- Một số kiến nghị để tăng cường ảnh hưởng của ứng dụng công nghệ số tới hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam
Về nhận thức vai trò chuyển đổi số đối với doanh nghiệp: Bộ Thông tin Truyền thông với tư cách là cơ quan quản lý lĩnh vực cần có các hoạt động tăng cường thêm nữa nhận thức về ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Xây dựng ngành Thông tin và Truyền thông mạnh và thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong những ngành ứng dụng đi đầu, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số tại các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp thuộc các vùng kinh tế lớn, phối hợp đồng bộ các biện pháp khuyến khích ứng dụng công nghệ số, tiến tới chuyển đổi số trong doanh nghiệp về cả hành chính, tài chính, công nghệ, duy trì quyết tâm thực hiện chương trình chuyển đổi số quốc gia toàn diện.
Chuyển đổi số nền kinh tế chắc chắn là một quá trình dài và khó khăn. Để đạt được kết quả, cần sự quyết tâm chính phủ, bộ Thông tin và truyền thông và sự hợp lực của toàn xã hội. Ngoài ra, chính các doanh nghiệp cần phải xác định chiến lược ứng dụng công nghệ số hướng tới chuyển đổi số hoạt động kinh doanh của mình trong nền kinh tế số.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 18217/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
P.T.T (NASATI)