Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn ứng dụng các phương pháp tính giá trị một số tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật bảo tồn phục hồi trong quản lý đa dạng sinh học
Cập nhật vào: Thứ ba - 14/01/2025 12:07
Cỡ chữ
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, là khu vực chuyển giao của luồng sinh vật Hymalaya ở phía đông và Đông Nam Á ở phía nam; dãy Trường Sơn là vùng chuyển tiếp giữa kiểu khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới (Sterling và cộng sự, 2006). Bên cạnh đó, Việt Nam có địa hình đa dạng, từ núi cao tới đồng bằng, ven biển và nhiều hệ thống sông lớn nhỏ khác nhau. Đó là những cơ sở để nước ta có tài nguyên thiên phong phú, đa dạng cao về các hệ sinh thái, trong đó có các hệ sinh thái điển hình như rừng, trảng cỏ, đất ngập nước, đồi cát, bãi bồi ven biển, cửa sông, bãi cỏ biển, rạn san hô và vùng biển sâu... Sự đa dạng về hệ sinh thái là cơ sở cho sự đa dạng loài động, thực vật và vi sinh vật tại Việt Nam. World Bank (2005) đã đánh giá Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới về đa dạng sinh học. Theo Báo cáo quốc gia về Đa dạng sinh học năm 2011, Việt Nam là nơi trú ngụ của 13.766 loài thực vật, 10.300 loài động vật trên cạn, 3.266 loài sinh vật nước ngọt và hơn 11.000 loài sinh vật biển.
Trong những năm qua, công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên (TNTN), bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) đã được Chính phủ chú trọng hoàn thiện khung pháp lý như Luật bảo vệ môi trường 2020, Luật đa dạng sinh học năm 2008 và sửa đổi năm 2018, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học năm 2014 và nhiều kế hoạch hành động bảo tồn cho nhóm loài đang có nguy cơ tuyệt chủng cao đã được đưa ra, như kế hoạch bảo tồn rùa biển, voi, hổ, linh trưởng, thú ăn thịt nhỏ… Tuy nhiên, suy thoái TNTN, ĐDSH ở Việt Nam vẫn đang là một trong những vấn đề cấp bách. Quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững TNTN; phục hồi, bảo tồn ĐDSH gặp rất nhiều thách thức do nhu cầu phát triển kinh tế, chuyển đổi đất khi chưa có đủ luận cứ khoa học, phát triển cơ sở hạ tầng, loài ngoại lai xâm hại, khai thác quá mức nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường, và áp lực từ việc tăng nhanh dân số. Tất cả các thách thức này đều do chưa đánh giá được một cách đầy đủ và đúng mức những giá trị thực sự của TNTN, cũng như chưa có một hướng dẫn đầy đủ về bảo tồn và phục hồi ĐDSH.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nhiệm vụ “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn ứng dụng các phương pháp tính một số giá trị tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật bảo tồn, phục hồi trong quản lý đa dạng sinh học” do TS. Phạm Hồng Tính cùng nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội thực hiện nhằm mục tiêu: Xác lập được cơ sở lý luận và thực tiễn để ứng dụng các phương pháp tính một số giá trị tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học trong điều kiện Việt Nam; Đề xuất được giải pháp ứng dụng hiệu quả các phương pháp tính một số giá trị tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật trong bảo tồn, phục hồi và quản lý đa dạng sinh học phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
1. Tổng quan về các phương pháp tính giá trị một số tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học đang được áp dụng tại Việt Nam và trên thế giới.
2. Đã xác định được hiện trạng, nhu cầu thực tế trong việc sử dụng, cập nhật các phương pháp tính giá trị một số tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học phù hợp với điều kiện Việt Nam tại một số đơn vị thực hiện các nhiệm vụ này
3. Đã đề xuất giải pháp cập nhật phương pháp tính giá trị một số tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học phù hợp với điều kiện Việt Nam.
4. Đã áp dụng thử nghiệm các phương pháp/kỹ thuật để tính giá trị du lịch của di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long, đề xuất giải pháp bảo tồn cây thuộc tại VQG Tam Đảm và đề xuất giải pháp phục hồi đa dang sinh học tại VQG Xuân Thuỷ.
5. Đã xây dựng 12 tài liệu hướng dẫn phương pháp/kỹ thuật phục vụ giảng dạy về tính giá trị tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 23228/2023) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)