Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ giám sát tài nguyên nước mặt và cảnh báo hạn hán ở Đồng bằng sông Cửu Long
Cập nhật vào: Thứ tư - 03/07/2024 13:08
Cỡ chữ
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vai trò vô cùng quan trọng đối với an ninh lương thực cũng như nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá của Việt Nam, đóng góp trên 50% sản lượng lương thực, trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu, hơn 70% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản và 57% tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước. Tuy nhiên sự phát triển của ĐBSCL đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu, sự phát triển không bền vững ở vùng thượng lưu và ngay trên ĐBSCL.

Việt Nam được đánh giá là 1 trong 5 quốc gia chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Với địa hình thấp, ĐBSCL là vùng chịu thiệt hại lớn nhất. Nước biển dâng kết hợp với lũ từ thượng nguồn có thể gây ngập lụt phần lớn diện tích của ĐBSCL. Theo tính toán của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu nước biển dâng 50cm, 60cm, 70cm, 80cm, 90cm và 100cm thì tỉ lệ diện tích bị ngập vĩnh viễn tương ứng tại ĐBSCL lần lượt là 4,48%, 8,58%, 14,7%, 21,0%, 28,2%, và 38,9%. Mặt khác, nước biển dâng kết hợp với sự thiếu hụt mưa trên đồng bằng và dòng chảy về từ thượng nguồn làm gia tăng xâm nhập mặn và hạn hán trên ĐBSCL. Sông Mê Công được xếp hàng thứ 9 trong các hệ thống sông lớn nhất trên thế giới, có nguồn nước tương đối dồi dào với tổng lượng nước bình quân hàng năm khoảng 475 tỷ m3 . Phần lớn lãnh thổ của Lào (97%) và Campuchia (86%), và 36% diện tích của Thái Lan (vùng Đông Bắc) nằm trong lưu vực sông Mê Công. Khoảng 11% diện tích của Việt Nam, trong đó có 2 phần chính là vùng Tây Nguyên và ĐBSCL nằm trong lưu vực sông Mê Công. 82% tổng lượng dòng chảy được hình thành từ bốn nước hạ lưu: Lào 35%, Thái Lan 18%, Camuchia 18% và Việt Nam 11%. Phần dòng chảy đóng góp từ hai nước thượng lưu (Trung Quốc, Myanma) chiếm khoảng 18% tổng lượng dòng chảy cả năm, được đánh giá là phần đóng góp quan trọng trong dòng chảy mùa kiệt ở lưu vực sông Mê Công. Theo thống kê gần đây của Ủy ban Sông Mê Công, trên lưu vực Sông Mê Công có 74 hồ đập đã xây dựng với tổng dung tích hữu ích 49,4 tỷ m3 ; trong tương lai gần (đến năm 2030) sẽ có 146 hồ với tổng dung tích hữu ích 95,2 tỷ m3 ; theo quy hoạch dự kiến hoàn thành vào năm 2060 trên lưu vực sông Mê Công sẽ có 168 hồ đập với tổng dung tích hữu ích đạt 110,4 tỷ m3 . Khác với Đồng bằng sông Hồng, nơi có hệ thống hồ chứa thượng nguồn lớn nằm trong lãnh thổ Việt Nam có thể chủ động điều tiết để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu dùng nước khác nhau (phát điện, cấp nước tưới và sinh hoạt, phòng lũ, du lịch và giao thông thuỷ…), chế độ nước đến ĐBSCL hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và chế độ hoạt động của các hồ chứa ở các nước thượng lưu. Để có các giải pháp giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra và để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và môi trường ở ĐBSCL nhiều đề tài nghiên cứu đã và đang được triển khai. Tuy nhiên chưa có đề tài nào đánh giá được dự trữ và khả năng cấp nước mặt (bao gồm dòng chảy, mưa, dự trữ nước trong các hồ chứa) của lưu vực. Hơn thế chưa có nghiên cứu nào đánh giá được chế độ vận hành của các hồ thượng lưu tuỳ thuộc vào dung tích trữ và lượng nước đến. Trong khi đó khi ở vào hình thái thời tiết bất lợi trên diện rộng, việc sử dụng nước cũng như việc điều tiết các hồ chứa thường được chuyển sang chế độ tiết kiệm nước. Việc các hồ chứa thượng lưu cùng điều tiết ở chế độ tiết kiệm nước sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lượng nước về ĐBSCL.
Rõ ràng tác động của sự phát triển ở thượng lưu và đặc biệt là tác động của các hồ chứa thượng nguồn đến chế độ dòng chảy và nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long là hết sức to lớn; hạn hán và xâm nhập mặn dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sụt lún đất có xu hướng gia tăng về tần suất và mức độ. Trong bối cảnh như vậy, một hệ thống giám sát tài nguyên nước mặt cho Đồng bằng sông Cửu Long kết hợp với mô hình dự báo hạn dài về hạn hán sẽ hỗ trợ có hiệu quả cho việc lựa chọn cơ cấu sản xuất phù hợp và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, giảm thiểu được thiệt hại do hạn hán và xâm nhập mặn. Việc xây dựng một hệ thống như vậy không phải là đơn giản trong điều kiện thiếu hoặc không có số liệu quan trắc. Chính vì vậy, nhằm mục tiêu cây dựng được quy trình công nghệ xác định đường đặc tính của các hồ chứa quan trọng trong lưu vực sông Mê Công trong điều kiện thiếu hoặc không có số liệu quan trắc đảm bảo độ chính xác cần thiết; xây dựng được hệ thống giám sát tài nguyên nước mặt cho Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng được mô hình dự báo hạn cho Đồng bằng sông Cửu Long, GS.TS. Nguyễn Quang Kim cùng các cộng sự tại Trường Đại học Thủy lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ giám sát tài nguyên nước mặt và cảnh báo hạn hán ở Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện thiếu số liệu quan trắc ở lưu vực sông Mê Công ngoài lãnh thổ Việt Nam” trong thời gian 18 tháng (6/2019 - 12/2020).
Sau một thời gian triển khai thực hiện, đề tài thu được một số kết quả như sau:
1. Xây dựng thành công Quy trình công nghệ xác định đường đặc tính các hồ chứa quan trọng trong lưu vực sông Mê Công trong điều kiện không có số liệu quan trắc đảm bảo độ chính xác cần thiết.
2. Phát triển thành công mô hình dự báo lượng mưa tháng, mưa mùa cho Đồng bằng sông Cửu Long.
3. Xây dựng thành công các chương trình tính các chỉ số hạn khí tượng SPI và SPEI cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
4. Xây dựng thành công mô hình dự báo hạn hán cho Đồng bằng sông Cửu Long.
5. Xây dựng thành công mô hình dự báo dòng chảy hạn dài cho các trạm Tân Châu và Châu Đốc.
6. Xây dựng thành công Chương trình tính chỉ số cấp nước mặt SWSI cho Đồng bằng sông Cửu Long.
7. Xây dựng thành công Phần mềm Hệ thống giám sát tài nguyên nước mặt và dự báo hạn hán tích hợp đầy đủ bộ cơ sở dữ liệu cho Đồng bằng sông Cửu Long.
Những kết quả đạt được của đề tài cho thấy định hướng nghiên cứu của đề tài rất đúng đắn và nhiều triển vọng, tuy nhiên do thời gian thực hiện ngắn một số kết quả của đề tài còn có những hạn chế, có thể nói mới chỉ là những kết quả bước đầu do đó đề tài mong được tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 của đề tài nghiên cứu này để giải quyết những tồn tại hạn chế nêu trên nhằm đưa các sản phẩm đầy triển vọng của đề tài vào sử dụng có hiệu quả trong thực tế.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 19866/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
P.T.T (NASATI)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








