Nghiên cứu cổ khí hậu giai đoạn Holocen khu vực Nam Tây Nguyên bằng dữ liệu trầm tích hồ núi lửa
Cập nhật vào: Thứ ba - 04/11/2025 00:08
Cỡ chữ
Nghiên cứu biến đổi khí hậu tập trung vào sự thay đổi các đặc trưng của khí hậu và ảnh hưởng của chúng đến các hệ sinh thái đã nhận được sự quan tâm rõ rệt của cộng đồng khoa học gần đây. Ở Việt Nam các dữ liệu cổ ghi nhận về đặc điểm khí hậu trong khoảng thời gian dài vẫn còn chưa đầy đủ. Do đó, để có được thông tin cổ khí hậu trong quá khứ, chẳng hạn trong Holocen - ngày nay, cần phải nghiên cứu những dấu tích còn lưu giữ trong đối tượng địa chất, như các trầm tích hồ núi lửa có mực nước tương đối sâu, hình thành trong các pha phun trào tương đối hiện đại của hoạt động núi lửa. Đây là nơi lý tưởng cho việc hình thành các lớp trầm tích hồ, nơi có thể ghi dấu các biểu hiện về điều kiện khí hậu theo từng giai đoạn. Khu vực Tây Nguyên Việt Nam là nơi có hoạt động phun trào núi lửa dữ dội nhất trên cả nước trong Kainozoi với sự phân bố phổ biến các thành tạo phun trào bazan và đi kèm với nó là sự xuất hiện của một số hồ nước ngọt lớn điển hình, hình thành liên quan đến hoạt động núi lửa.
Từ thực tế trên, TS. Nguyễn Đình Thái đã phối hợp với các cộng sự tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cổ khí hậu giai đoạn Holocen khu vực Nam Tây Nguyên bằng dữ liệu trầm tích hồ núi lửa” trong thời gian từ năm 2020 đến năm 2023.
Mục tiêu của đề tài là nhằm i) Khôi phục được các điều kiện môi trường giai đoạn Holocen như lớp phủ thực vật, đặc điểm khô hạn, tình trạng ngập lụt và hoạt động gió mùa từ dữ liệu trầm tích Holocen tích tụ trên các hồ núi lửa điển hình khu vực Nam Tây Nguyên; và ii) Đánh giá được các đặc điểm khí hậu giai đoạn Holocen khu vực Nam Tây Nguyên.
Dưới đây là một số kết quả của đề tài:
- Về nội dung phân chia các đơn vị trầm tích và xác định các chỉ số khôi phục điều kiện cổ môi trường – cổ khí hậu trong Holocen muộn: Cột mẫu trầm tích có chiều dài 877 cm được phân chia thành 14 đơn vị trầm tích dựa trên các đặc điểm thạch học, màu sắc, và thành phần vật chất hữu cơ. Kết quả phân tích cho khoảng tuổi đến 1230 năm cách ngày nay (khoảng vào năm 720). Tốc độ lắng đọng các lớp trầm tích trung bình ~0,7 cm/năm, giảm xuống ~0,4 cm/năm ở phần sâu của lõi mẫu (tương ứng thế kỷ thứ 8-10 sau công nguyên), và tăng nhanh hơn vào khoảng thế kỷ 13-15. Thành phần trầm tích hồ Ea Tyn chiếm chủ yếu là bột (60,4-98,1%, tb 82,6%) và sét (chiếm 1,9-39,6%, tb 17,4%). Hàm lượng vật chất hữu cơ (VCHC) trong trầm tích trung bình khoảng 10,8 % và ít thay đổi trong các lớp trầm tích.
Đặc điểm địa hóa trầm tích hồ Ea Tyn được phân chia thành 2 nhóm: 1) nhóm siliciclastic gồm khoáng vật bở rời và khoáng vật sét được vận chuyển từ lưu vực hồ; 2) nhóm khoáng vật carbonat/sulfate lắng đọng tại chỗ vào mùa khô khi mà tốc độ bốc hơi xảy ra mạnh nhất.
- Về dấu hiệu ghi nhận các giai đoạn cổ khí hậu ở Tây Nguyên từ 1250 năm trở lại đây So sánh biến đổi nhiệt độ trong suốt 2000 năm qua cho thấy ở Tây Nguyên có sự tương đồng với nhiệt độ đặc trưng ở khu vực Châu Âu qua các giai đoạn Medieval Warm Period (MWP), Little Ice Age (LIA) hay Current Warm period (CWP). Kết quả phân tích đồng vị δ18O từ măng đá ở hang Wanxiang (Trung Quốc) cho thấy gió mùa mùa hè hoạt động mạnh trong MWP (950-1340) và yếu hơn trong LIA (1350-1850). Trong giai đoạn CWP hiện nay, cường độ gió mùa có xu thế tăng trở lại. Thậm chí những biến đổi về cường độ gió mùa ở khu vực rìa (chuyển tiếp) cũng dễ dàng phát hiện. Chỉ thị Rb/Sr từ trầm tích hồ Ea Tyn (120 vĩ độ bắc) cho kết quả tương tự phân tích δ18O từ măng đá ở Wanxiang (330 vĩ độ bắc).
Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm cổ môi trường, cổ khí hậu của khu vực cũng như những biến đổi trong quá khứ, đóng góp vào cơ sở dữ liệu Việt Nam và trên thế giới.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (Mã số 21445/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
N.P.D (NASTIS)
Liên hệ
Tiếng Việt
Tiếng Anh








