Nghiên cứu chính sách thu hút nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số đến năm 2030
Cập nhật vào: Thứ tư - 07/12/2022 00:02
Cỡ chữ
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với tổng số 54 dân tộc, trong đó, 53 DTTS có 13.386.330 người, chiếm 14,6% dân số cả nước. Vùng dân tốc thiểu số (DTTS) chiếm một địa bàn rộng lớn, tập trung ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo của đất nước. Nơi đây chủ yếu là bà con DTTS sinh sống, điều kiện KT - XH chưa phát triển, còn khó khăn, trình độ dân trí thấp nên nguồn nhân lực (NNL) vùng DTTS chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn. Trong khi đó, NNL là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH của vùng DTTS. Hơn nữa đây còn là một vùng quan trọng đặc biệt trong phát triển KT-XH, an ninh và quốc phòng. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi vấn đề thu hút NNL cho phát triển KT - XH vùng DTTS là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản và có vị trí chiến lược trong cách mạng nước ta trước đây và sau này. Chính vì vậy, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm ban hành nhiều chính sách khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH vùng DTTS. Từ khi tiến hành đổi mới đến nay (1986 - 2019) nhiều Nghị quyết Đại hội Đảng đều luôn dành sự quan tâm đến đồng bào DTTS, vùng khó khăn để đề ra các chủ trương nhằm xóa dần khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các vùng trong đất nước và thực hiện mục tiêu đại đoàn kết dân tộc.
Các chương trình, dự án, đề án và các chính sách về thu hút NNL cho phát triển KT - XH vùng DTTS được hình thành, ra đời và phát triển dựa trên nhu cầu thực tiễn. Các chủ trương, chính sách đó đã làm thay đổi theo hướng tích cực cho vùng DTTS như chính sách thu hút NNL ở các ngành, lĩnh vực như giáo dục, y tế; các chính sách hỗ trợ cho vùng DTTS (nhà ở, giáo dục, y tế, cử tuyển, cho vay vốn để phát triển sản xuất, cấp phát báo, ấn phẩm...); các chương trình (chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, giải quyết việc làm.....); Đề án (Đề án đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, thu hút 600 trí thức trẻ về làm phó chủ tịch các xã thuộc 62 huyện nghèo nhất cả nước, đào tạo bác sĩ phục vụ các vùng sâu, xa, khó khăn của đất nước....)
Xuất phát từ thực tiễn đó, Cơ quan chủ trì Trường Đại học Lao động - Xã hội cùng phối hợp Chủ nhiệm đề tài TS. Vũ Hồng Phong thực hiện “Nghiên cứu chính sách thu hút nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số đến năm 2030” với mục tiêu: Làm rõ kết quả, hiệu quả và tác động của chính sách thu hút NNL cho phát triển KT - XH vùng DTTS từ đổi mới đến nay; Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách thu hút NNL cho phát triển KT - XH vùng DTTS, đến năm 2030.
Vấn đề dân tộc thiểu số (DTTS) đã và đang là một vấn đề nhạy cảm, nhận được nhiều sự quan tâm của các quốc gia và các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Điều này được thể hiện qua số lượng lớn các nghiên cứu, về nhiều khía cạnh, ở nhiều quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam dân tộc và các chính sách về dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng. Vì thế, trong thời gian từ năm 1986 đến nay, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đề xuất những luận cứ khoa học phục vụ cho việc xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cùng các nghiên cứu của các tác giả về chính sách phát triển KT-XH vùng DTTS mới chỉ liên quan đến một vùng DTTS nào đó và hầu hết đều khẳng những khó khăn của vùng DTTS. Trên cơ sở đó cần phải có những chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho các vùng DTTS để bà con ở nơi đây có điều kiện thuận lợi khắc phục khó khăn, phát triển. Tuy nhiên, việc nghiên cứu liên quan đến thu hút NNL cho phát triển KT-XH ở vùng DTTS hầu như chưa có đề tài nào đề cập đến. Hơn nữa, vấn đề phát triển KT-XH ở vùng DTTS vẫn còn chậm nên cần phải có những những nghiên cứu chuyên sâu làm căn cứ khoa học và thực tiễn giúp Đảng và Nhà nước ban hành những chính sách đủ mạnh thúc đẩy phát triển KT-XH vùng DTTS bền vững.
Chính sách thu hút NNL cho phát triển KT-XH vùng DTTS có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển vùng DTTS, đảm bảo quốc phòng an ninh. Chính sách thu hút NNL vừa đáp ứng nhu cầu NNL của vùng DTTS, góp phần chuyển dịch lao động hợp lý giữa các vùng, miền trong cả nước, vừa giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thúc đẩy vùng DTTS phát triển bền vững trong tương lai. Trên cơ sở phân tích thực trạng chính sách thu hút NNL cho phát triển KT-XH vùng DTTS từ khi Đảng ta tiến hành đổi mới đến nay, đề tài đã đánh giá được những thành công của chính sách thu hút NNL cho vùng DTTS thời gian qua chủ yếu tập trung vào các khuyến khích về lợi ích vật chất như: phụ cấp thu hút, phụ cấp ưu đãi, trợ cấp, phụ cấp đặc thù ngành, ưu tiên (trong tạo nguồn, bố trí, sử dụng và đãi ngộ)… Tuy nhiên, chính sách thu hút NNL cho phát triển KT-XH vùng DTTS còn chồng chéo, nằm rải rác ở nhiều văn bản, chưa thống nhất và còn tập trung vào chính sách thu hút NNL dành cho khu vực công là chủ yếu. Đồng thời chính sách chưa đủ tạo động lực (vật chất và tinh thần) cho đối tượng thu hút sẵn sàng chuyển đến sinh sống, làm việc đóng góp, cống hiến ổn định lâu dài tại vùng DTTS. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện chính sách có nơi, có lúc ngân sách nhà nước không có để chi trả cho những khuyến khích về vật chất mà trong chính sách thu hút NNL.
Chính vì vậy, nhóm tác giả đề tài đã dựa trên thực trạng chính sách thu hút NNL cho phát triển KT-XH vùng DTTS, dựa trên định hướng phát triển KT-XH và định hướng phát triển NNL vùng DTTS đó. Đề tài đã dự báo được sự phát triển NNL trong tương và khả năng đáp ứng nhu cầu tại chỗ của NNL vùng DTTS trên cơ sở đó đề ra được quan điểm, định hướng và giải pháp để xây dựng và hoàn thiện chính sách thu hút NNL cho phát triển KT-XH vùng DTTS trong thời gian tới. Tập trung xây dựng chính sách thu hút NNL cho vùng DTTS ở cả 2 khu vực, bao gồm khu vực công và ngoài khu vực công sao cho phù hợp với mỗi đối tượng cụ thể. BCN đề tài đã nêu được những chính sách nào cần bãi bỏ, chính sách nào cần bổ sung và chính sách nào cần hợp nhất để đảm bảo khắc phục được những điểm chưa thành công trong thực hiện chính sách thu hút NNL cho vùng DTTS thời gian 321 qua. Nội dung xây dựng, hoàn thiện và ban hành mới chính sách thu hút NNL vùng DTTS đã thể hiện đầy đủ các quyền lợi (bao gồm cả vật chất và tinh thần) và gắn trách nhiệm của đối tượng thu hút cũng như trách nhiệm của cơ quan ban hành chính sách trong quá trình triển khai chính sách trong cuộc sống.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 17702/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)