Nghiên cứu biến động và phân bố cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ
Cập nhật vào: Thứ ba - 05/12/2023 00:02
Cỡ chữ
Vùng biển Đông Nam Bộ (ĐNB) là một trong những ngư trường trọng điểm ở Việt Nam, với nền đáy tương đối bằng phẳng rất thuận lợi cho các hoạt động khai thác hải sản. Các kết quả nghiên cứu giai đoạn 2000 - 2005 cho thấy, trữ lượng nguồn lợi cá đáy ở vùng biển ĐNB khoảng 304.850 tấn, khả năng khai thác 152.425 tấn và trữ lượng nguồn lợi cá nổi nhỏ khoảng 770.800 tấn, khả năng khai thác 308.300 tấn. Tuy nhiên, theo chuỗi thời gian trữ lượng nguồn lợi hải sản tầng đáy ở vùng biển Đông Nam Bộ đang có xu hướng suy giảm, trữ lượng ước tính ở mùa gió Tây Nam năm 2005 giảm khoảng 13,5% so với năm 2004 và giảm khoảng 46,0% so với mùa gió Đông Bắc năm 2003. Cũng giống như các vùng khác trong cả nước, hoạt động khai thác hải sản trên vùng biển mang tính chất tự phát, thiếu sự kiểm soát trong thời gian dài dẫn đến mất cân đối giữa năng lực khai thác và nguồn lợi hiện có, tổng số tàu lắp máy ở các tỉnh ven biển Đông Nam Bộ năm 2000 là 15.296 chiếc, đến năm 2011 tăng lên 26.043 chiếc.
Ngoài ra, còn có hàng ngàn tàu cá của các tỉnh ven biển miền Trung và Tây Nam Bộ tham gia khai thác ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ, điều này đã làm gia tăng áp lực khai thác lên vùng biển. Để ổn định sản lượng khai thác và lợi nhuận, ngư dân đã tìm mọi biện pháp để gia tăng áp lực khai thác lên nguồn lợi như tăng công suất tàu, thời gian khai thác; giảm kích thước mắt lưới ở đụt lưới kéo; tăng công suất nguồn sáng trong nghề lưới vây, pha xúc; sử dụng các loại ngư cụ và phương pháp đánh bắt có hại cho nguồn lợi như chất nổ, xung điện, chất độc,... dẫn đến nhiều loài cá có giá trị kinh tế, quí hiếm đang bị đe dọa tuyệt chủng. Vì vậy, việc nghiên cứu biến động và phân bố cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ là cần thiết. Đó là lý do nhóm nghiên cứu tại Viện nghiên cứu hải sản do ThS. Bùi Văn Tùng dẫn đầu, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu biến động và phân bố cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ đông nam bộ” từ năm 2011 đến năm 2012.
Mục tiêu của đề tài là nhằm xác định cường lực khai thác tối ưu phù hợp với trữ lượng nguồn lợi ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ và đề xuất các giải pháp quản lý cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ theo hướng bền vững.
Sau hai năm nghiên cứu, đề tài đã đưa ra những kết luận như sau:
1. Khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ bao gồm đội tàu của các tỉnh trong khu vực (từ Bình Thuận đến Bạc Liêu) và đội tàu các tỉnh ngoài khu vực (Kiên Giang, Cà Mau, Bình Định, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Khánh Hòa và Phú Yên); số lượng tàu tham gia khai thác trên vùng biển dao động từ 9.774 - 11.640 chiếc/tháng phụ thuộc vào mùa vụ khai thác trong năm.
2. Cường lực khai thác của đội tàu công suất ≥ 90CV ở vùng biển xa bờ ĐNB trong mùa gió Đông Bắc là 371.719 ngày tàu chiếm tỷ lệ 46,7% tổng cường lực khai thác của đội tàu, trong mùa gió Tây Nam là 598.375 ngày tàu chiếm tỷ lệ 55,7% tổng cường lực khai thác của đội tàu; sản lượng khai thác tương ứng ở hai mùa lần lượt là 201.085 tấn chiếm tỷ lệ 46,0% tổng sản lượng của đội tàu và 325.084 tấn chiếm tỷ lệ 52,5%. Ngoài ra tham gia khai thác ở vùng biển xa bờ ĐNB còn có đội tàu công suất 50 - 90CV với khoảng 39.938 ngày tàu trong mùa gió Đông Bắc và 61.551 ngày tàu ở mùa gió Tây Nam, tương ứng với sản lượng khai thác là 10.726 tấn và 16.324 tấn.
3. Lưới kéo là nghề khai thác chủ lực ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ chiếm 58,2% về cường lực và 55,9% về sản lượng khai thác của toàn bộ đội tàu; nghề lưới rê chiếm 12,7% về cường lực và 11,0% về sản lượng; nghề lưới vây chiếm 9,6% về cường lực và 19,6% về sản lượng; nghề câu chiếm 9,6% về cường lực và 2,1% về sản lượng; nhóm nghề khác chiếm 8,0% về cường lực và 11,4% về sản lượng.
4. Cường lực khai thác của đội tàu lưới kéo tập trung chủ yếu ở vùng biển có dải độ sâu 50m trở vào, tập trung nhiều ở khu vực Côn Đảo, Nam - Đông nam Côn Đảo, vùng lộng từ Bình Thuận đến Bạc Liêu; lưới rê tập trung chủ yếu ở vùng biển Côn Đảo đến 6 030’N, khu vực tây nam quần đảo Trường Sa; lưới vây tập trung nhiều ở khu vực Côn Đảo, Nam - Đông Nam Côn Đảo, Bình Thuận - Phú Quí, vùng lộng Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề câu mực tập trung ở vùng biển Côn Đảo - Nam Côn Đảo, nghề câu cá rạn tập trung ở khu vực tây nam quần đảo Trường Sa; nhóm nghề khác tập trung nhiều ở khu vực quanh Côn Đảo và Nam Côn Đảo, mùa gió Tây Nam cường lực khai thác có xu hướng dịch chuyển ra xa bờ hơn so với mùa gió Đông Bắc.
5. Hiệu quả hoạt động của các nghề khai thác ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ như sau: đội tàu lưới vây có 72% đạt mức hiệu quả cao và 28% đạt mức hiệu quả, đội tàu lưới kéo có 67% đạt mức hiệu quả cao và 33% đạt mức hiệu quả, đội tàu câu có 67% đạt mức hiệu quả cao và 30% đạt mức hiệu quả, đội tàu nghề khác có 44% đạt mức hiệu quả cao và 50% đạt mức hiệu quả, nghề lưới rê có hiệu quả hoạt động thấp nhất với 39% đạt mức hiệu quả cao và 39% đạt mức hiệu quả. Hiệu quả hoạt động của các đội tàu có xu hướng tỷ lệ nghịch với sự gia tăng công suất tàu, tàu công suất lớn có hiệu quả hoạt động thấp hơn tàu công suất nhỏ.
6. Cường lực khai thác bền vững tối đa ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ nằm trong khoảng từ 950.091 - 951.659 ngày tàu và sản lượng khai thác bền vững tối đa tương ứng từ 480.779 - 501.651 tấn. Cường lực khai thác hiện tại ở vùng biển xa bờ ĐNB vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa khoảng 2% và sản lượng vượt ngưỡng sản lượng khai thác bền vững tối đa khoảng 7%; nếu bao gồm cả cường lực khai thác của đội tàu công suất nhỏ hơn 90CV thì cường lực khai thác trên vùng biển vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa khoảng 13% và sản lượng khai thác vượt ngưỡng sản lượng khai thác bền vững tối đa khoảng 10 - 15%.
Việc nghiên cứu biến động và phân bố cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp để quản lý cường lực khai thác trên vùng biển theo hướng bền vững
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19178/2014) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)