Áp dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá hiệu quả doanh nghiệp ngành nông nghiệp, hạ tầng, công nghiệp và năng lượng và định hướng chỉ số giám sát
Cập nhật vào: Thứ hai - 11/12/2023 00:03
Cỡ chữ
Hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề được quan tâm cả về lý luận và thực tiễn. Mặc dù doanh nghiệp nhà nước ở mỗi quốc gia có thể được hiểu khác nhau, song khái niệm này nhấn mạnh đến tỷ lệ sở hữu của nhà nước đối với vốn điều lệ của doanh nghiệp trên 50%. Ngoài yếu tố sở hữu, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của các doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc thù nhất định so với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước, bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, còn có chức năng khắc phục những thất bại của cơ chế thị trường như cung cấp những dịch vụ an sinh xã hội, thực hiện các cân đối lớn của nền kinh tế, điều tiết thị trường. Chính vì những đặc điểm này, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước có sự khác biệt so với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung, các nghiên cứu về doanh nghiệp nhà nước nói chung và hiệu quả doanh nghiệp nhà nước nói riêng đều đưa ra nhận định về sự chưa tương xứng giữa hiệu quả với những ưu thế đặc thù của các doanh nghiệp này. Những nghiên cứu về tác động của cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước đã chỉ ra sự cải thiện về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá – thoái vốn nhà nước. Những nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp cũng cho rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước tạo những lợi thế nhất định cho doanh nghiệp song sẽ có tác động ngược chiều đến hiệu quả doanh nghiệp. Do vậy, cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước trở thành mục tiêu then chốt trong tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986 đánh dấu những bước dịch chuyển đầu tiên trong định hướng điều hành nền kinh tế của Chính phủ thông qua mở cửa nền kinh tế, thiết lập thể chế thị trường, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế, là đối tác chiến lược trong nhiều thoả thuận thương mại tự do. Bối cảnh này đã tạo ra những động lực quan trọng cho tiến trình cải cách và 1 tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Tính từ năm 2005 đến nay, Chính phủ đã thực hiện ba giai đoạn cải cách doanh nghiệp nhà nước chính nhằm giảm bớt sự hiện diện của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước, thực hiện các cam kết quốc tế về doanh nghiệp nhà nước, tạo sân chơi công bằng bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế.
Xuất phát từ thực tiễn trên, TS. Nguyễn Tuấn Anh và các cộng sự thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã thực hiện nghiên cứu “Áp dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá hiệu quả doanh nghiệp ngành nông nghiệp, hạ tầng, công nghiệp và năng lượng và định hướng chỉ số giám sát” với mục tiêu làm rõ hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty do UB làm đại diện vốn chủ sở hữu, từ đó đưa ra khuyến nghị về bộ chỉ số giám sát tài chính của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế (HQKT) là phạm trù kinh tế khách quan, là thước đo quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Đây cũng là mục tiêu quan trọng nhất mà các chủ thể kinh tế muốn đạt được. Việc nâng cao HQKT là một đòi hỏi khách quan của các chủ thể sản xuất và của nền sản xuất xã hội. Vì vậy, việc hiểu đúng bản chất của HQKT, xác định đúng các chỉ tiêu để đo lường, đánh giá HQKT là vấn đề quan trọng cần làm rõ khi phân tích hiệu quả sản xuất của một hoạt động trong nền kinh tế.
Trên cơ sở làm rõ những quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế và các yếu tố cấu thành hiệu quả kinh tế, trong phạm vi của đề tài này, khái niệm hiệu quả kinh tế được định nghĩa như sau: “Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan phản ánh trình độ, năng lực quản lý điều hành của các tổ chức sản xuất nhằm đạt được kết quả đầu ra cao nhất với chi phí đầu vào thấp nhất”.
Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn của việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, cùng với mong muốn cung cấp thêm những bằng chứng thực nghiệm về hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước, tác giả đã tiến hành nghiên cứu Áp dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá hiệu quả doanh nghiệp ngành nông nghiệp, công nghiệp, hạ tầng, năng lượng và định hướng chỉ số giám sát. Đề tài lựa chọn tình huống nghiên cứu tại Ủy ban Quản lý Vốn Nhà nước (UBQLVNN) với mẫu nghiên cứu trong danh mục do UBQLVNN làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong giai đoạn 2013-2018. Thông qua phân tích định tính đánh giá khái quát hiệu quả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, và phân tích định lượng làm rõ những nhân tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả sinh lời của các doanh nghiệp, có thể rút ra một số điểm chính mà đề tài đã làm được, gồm:
Thứ nhất, đề tài đã hệ thống khung lý thuyết về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, làm rõ những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế và các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Đặc biệt đề tài đã làm rõ các phương pháp ước lượng hiệu quả kỹ thuật và mô hình đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp.
Thứ hai, đề tài đã xem xét những nghiên cứu trước đây có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài, chỉ ra khoảng trống nghiên cứu và làm rõ góc độ tiếp cận vấn đề nghiên cứu của đề tài. Đứng từ quan điểm của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, phân tích và đánh giá đúng hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước là điều kiện tiên quyết để UBQLVNN có thể hoàn thành sứ mạnh và trọng trách Đảng và Chính phủ giao phó trong việc quản lý, sử dụng tài sản, vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Thứ ba, đề tài đã tiến hành thống kê số liệu của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp FDI, và các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán thuộc các ngành tương ứng, từ đó đánh giá vị thế, vai trò, và hiệu quả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong giai đoạn 2013-2018.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18860/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Đ.T.V (NASATI)