Chính sách mới trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Brasil
Cập nhật vào: Thứ hai - 06/05/2019 10:02 Cỡ chữ
Là nền kinh tế mới nổi có quy mô lớn thứ 7 thế giới, Brasil đã vượt qua được thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng tốc độ tăng trưởng chậm lại trong hai năm gần đây. Để đẩy mạnh thành tích kinh tế, Kế hoạch Greater Brasil 2011 - 2014 đã được thông qua vào năm 2011 coi đổi mới sáng tạo có vai trò trung tâm và đưa ra các kiến nghị về những thay đổi quan trọng trong khuôn khổ luật pháp.
Những điểm chính trong hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐM) của Brasil Điều hành chính sách KHCN&ĐM: Điều hành chính sách KHCN&ĐM của Brasil đã không có thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Các kế hoạch đang được triển khai để làm tăng sự phi tập trung hóa các công cụ chính sách và đẩy mạnh sự phối hợp các nguồn lực liên bang, bang và tư nhân tập trung cho đổi mới trong quá trình thực hiện chương trình. Hội đồng Quốc gia về phát triển công nghiệp đã được tổ chức lại vào tháng 8/2011 để nâng cao sự phối hợp và sự tham gia của các bên tham gia. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Kinh tế và Xã hội Quốc gia (BNDES), các doanh nghiệp tư nhân, đại diện ngành công nghiệp và công đoàn tham gia trong Hội đồng này.
Nguồn tăng trưởng mới: Chiến lược KHCN&ĐM của Brasil chủ trương đẩy mạnh lợi thế so sánh của một nền kinh tế "xanh". Trong lĩnh vực công nghệ môi trường, Brasil có trình độ cao hơn mức trung bình BRICS, nhưng dưới mức trung bình của OECD; trong lĩnh vực công nghệ sinh học và nano, Brasil có lợi thế hơn so với OECD và EU28. Các chương trình hỗ trợ bao gồm các quỹ ngành (CT-Energy, CT-Ptro). Tháng 2/2012, Quỹ Khí hậu mới được thành lập với mục đích tài trợ cho các dự án giảm phát thải khí nhà kính.
Trường đại học và nghiên cứu công: Brasil có tương đối ít các trường đại học lọt vào top 500 thế giới. Thành tích nghiên cứu được đánh giá qua các công bố khoa học và kỹ thuật được đăng tải trên 25% tạp chí khoa học hàng đầu thế giới vẫn còn thấp so với tiêu chuẩn OECD, mặc dù số bài báo khoa học và kỹ thuật tăng với tỷ lệ trung bình 6,4% mỗi năm trong giai đoạn 2001 - 2011, theo số liệu của Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự gia tăng này vẫn còn thấp hơn so với các nền kinh tế lớn mới nổi khác, như Trung Quốc (15,6%) và Ấn Độ (7,6%).
Đổi mới trong doanh nghiệp: Các DNVVN của Brasil đổi mới rất ít. Do đó một số sáng kiến của Chính phủ nhằm hỗ trợ đổi mới, khởi nghiệp và hỗ trợ kinh phí chủ yếu được tiến hành dưới hình thức tài trợ. Ví dụ, Chương trình PRIME (Primeira Empresa Inovadora) đã tài trợ cho 1.381 doanh nghiệp với 104 triệu USD (166 triệu BRL) trong giai đoạn từ 2009 - 2011. Để phân quyền việc cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp siêu nhỏ và các DNVVN, Chương trình Inovacred của Cơ quan Đổi mới Sáng tạo Brasil (FINEP) đã được thành lập vào tháng 9/2012 với mục đích gia tăng sự hỗ trợ kinh phí bằng cách phi tập trung hóa công việc tài trợ thông qua các ngân hàng phát triển, các cơ quan xúc tiến nghiên cứu công và các ngân hàng thương mại nhà nước. Từ năm 2012 đến năm 2018, chương trình này có kế hoạch cấp giấy chứng nhận cho 20 đại lý tài chính và tài trợ cho khoảng 2.000 doanh nghiệp với tổng số vốn 788 triệu USD (1,2 tỷ BRL). Ngoài ra, chương trình Pró-Inova, được áp dụng năm 2005, cũng khuyến khích đổi mới kinh doanh và tinh thần doanh nghiệp bằng cách tuyên truyền thông tin về các công cụ pháp lý, cơ sở vật chất và các cơ chế hỗ trợ sẵn có.
Chuyển giao và thương mại hóa công nghệ: Chính phủ Brasil rất chú trọng việc hỗ trợ thương mại hóa các đổi mới công nghệ. Ngày 10/7/2013, FINEP đã công bố một gói trị giá 420 triệu USD (640 triệu BRL) để hỗ trợ các vườn ươm và các khu công nghệ cũng như các công ty đóng trụ sở tại đó. Hỗ trợ công cung cấp cho các vườn ươm và các khu công nghệ thông qua các khoản cho vay và đầu tư bằng vốn cổ phần cho các công ty đặt trụ sở tại đây cũng như cho các doanh nghiệp được ươm tạo trong thời gian chưa đến hai năm. Brasil còn thực hiện một số chương trình khuyến khích sự luân chuyển các nhà nghiên cứu giữa các ngành (ví dụ như Pappe, Chương trình Hỗ trợ nghiên cứu trong doanh nghiệp và SEBRAE, Chương trình Dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ của Brasil) để tạo điều kiện thuận lợi cho dòng tri thức giữa các trường đại học, các viện nghiên cứu công và khu vực doanh nghiệp.
Kỹ năng cho đổi mới: Nguồn nhân lực là một nút thắt trong hệ thống đổi mới của Brasil. Số người trưởng thành có trình độ đại học chiếm một phần rất nhỏ. Hệ thống giáo dục cần được cải tiến và thành tích của học sinh độ tuổi 15 về khoa học còn nghèo nàn, mặc dù có những cải thiện rõ rệt về điểm số đánh giá theo Chương trình Pisa OECD trong giai đoạn 2003 - 2012. Nỗ lực đã được huy động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp, bao gồm cả việc áp dụng các kỳ thi tuyển đầu vào đối với giáo viên. Để có tỷ lệ nhập học cao hơn, tài trợ cho giáo dục cơ bản và chuyên nghiệp đã tăng lên và điều kiện cho sinh viên vay vốn đã được nới lỏng.
NASATI