Nghiên cứu nhân giống 2 dòng bạch đàn PNCT3 và PNCTIV bằng phương pháp nuôi cấy mô
- Thứ sáu - 20/11/2020 00:26
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Hai dòng Bạch đàn PNCT3 và PNCTIV đã được Bô ̣Nông nghiêp̣ và Phát triển nông thôn công nhận là giống tiến bô ̣kỹ thuâṭ theo Quyết điṇh số 288/QĐBNN-TCLN ngày 07 tháng 03 năm 2014.Vùng trồng thích hợp của hai dòng Bạch đàn này là tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ và các vùng có sinh thái tương tự.
Hai dòng này đã được trồng và đánh giá ở nhiều nhiêṃ vụ khác nhau như: nhiệm vụ cấp Bộ Công thương về bảo tồn và lưu giữ nguồn gen cây nguyên liệu giấy thu thập và được trồng bảo tồn exsitu tại xã Tiên Kiên và Gia Thanh - Phú Thọ vào năm 2007. Kết quả đánh giá năm 2010 của nhiệm vụ cho thấy các dòng này có sinh trưởng tốt. Sau 66 tháng tuổi, chiều cao vút ngọn bình quân của các dòng đạt19m; đường kính ở vị trí 1,3 đạt 10,6cm; thể tích thân cây bình quân đạt 0,092m3 /cây. Đây là 2 dòng tốt nhất trong số 14 dòng trồng bảo tồn của nhiệm vụ (sinh trưởng tốt hơn hẳn hai dòng trồng đại trà hiện nay là PN14 và U6; thể tích thân cây của dòng PN14 là 0,089m3/cây và dòng U6 là 0,068m3/cây). Đề tài cấp Bộ Công thương về nghiên cứu giâm hom và xây dựng mô hình rừng trồng năng suất cao cho 2 dòng trên. Các mô hình rừng trồng đều cho thấy các dòng trên có sinh trưởng vượt trội so với các dòng đại trà, chất lượng rừng rất đồng đều và không xảy ra hiện tượng sâu bệnh hại.
Trong nhân giống cây rừng hiêṇ nay, đặc biệt là đối với các loài cây công nghiêp̣ với diện tích trồng rừng trên diện rộng như cây nguyên liệu giấy thì phương pháp nhân giống hiêụ quả nhất vẫn là nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô. Phương pháp này cho hiệu quả rõ rệt với các phương thức nhân giống khác đó là : có thể tạo được số lượng lớn cây con trong thời gian ngắn ; cây con taọ ra lưu giữ được những đăc̣ tính tốt của cây me; chất lượng cây giống đồng đều nên chất lượng cây rừng đồng đều do đó nâng cao chất lượng rừng trồng; đăc̣ biêṭ cây giống taọ ra bằng phương pháp nuôi cấy mô được trẻ hoá hơn so với phương pháp giâm hom nên sức sinh trưởng của cây rừng cũng tốt hơn.
Xuất phát từ những đặc điểm trên, việc nghiên cứu nhân giống hai dòng bạch đàn PNCT3 và PNCTIV bằng phuơng pháp nuôi cấy là vô cùng cần thiết nhằm cung cấp cây giống năng suất cao và chất lựợng tốt cho trồng rừng. Từ đó góp phần nâng cao tính cạnh tranh và duy trì tốc độ phát triển của ngành giấy Việt Nam. Xuất phát từ thực tiễn đó nhóm nghiên cứu do Cơ quan chủ trì Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài Th.S Phạm Đức Duy nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu nhân giống 2 dòng bạch đàn PNCT3 và PNCTIV bằng phương pháp nuôi cấy mô”. Với mục tiêu Xây dựng đƣợc quy trình kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô 2 dòng Bạch đàn PNCT3 và PNCTIV.
Qua 3 năm thực hiện các nội dung nghiên cứu, bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học, bố trí thí nghiệm, thu thập số liệu tin cậy và sử dụng phương pháp phân tích thống kê thích hợp. Đề tài đã hoàn thành tốt các mục tiêu nghiên cứu đề ra cả mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể như sau:
1. Nghiên cứu ảnh hưởng của chất khử trùng mẫu và thời gian khử trùng cho thấy với cả 2 dòng Bạch đàn PNCT3 và PNCTIV thì chất khử trùng tốt nhất là HgCl2 nồng độ 0,1%. Với dòng PNCT3 thời gian khử trùng thích hợp là 9 phút, cho tỷ lệ mẫu sạch và nảy chồi đạt 28,9%. Với dòng PNCTIV thời gian khử trùng thích hợp là 10 phút, cho tỷ lệ mẫu sạch và nảy chồi đạt 30,0%.
2. Nghiên cứu môi trường hóa học và môi trường vật lý cho giai đoạn tạo chồi và nhân chồi cho thấy:
Với dòng Bạch đàn PNCT3, môi trường nhân nhanh chồi thích hợp là môi trƣờng MS có bổ sung 6,0g/lít Agar + 30g/lít đường sucarose + 1,5 mg/lít BAP + 0,9mg/l NAA + 5mg/l Riboflavin + 1,0mg/l Biotin, điều chỉnh độ pH đến ở 5,8.
Với dòng Bạch đàn PNCTIV, môi trừờng nhân nhanh chồi là môi trường MS* có bổ sung 6,0g/lít Agar + 30g/lít đường sucarose + 1,0 mg/lít BAP + 0,9mg/l NAA + 10mg/l Riboflavin, điều chỉnh độ pH ở 5,8.
3. Các kết quả nghiên cứu giai đoạn ra rễ invitro và giai đoạn cấy và chăm sóc cây mầm ở vườn ươm thu được với từng dòng như sau:
Với dòng Bạch đàn PNCT3, nôi trường hóa học thích hợp cho quá trình ra rễ là ½ môi trường khoáng MS có bổ sung 2,5mg/l IBA + 2,0mg/l ABT1+ 6,0mg/l Agar, điều chỉnh độ pH ở 5,8. Với môi trường hóa học này cho tỷ lệ ra rễ đạt 79,6%. Chồi đã ra rễ (sau 2 tuần từ khi cấy vào môi trường tạo rễ) cần được huấn luyện trong thời gian 15 ngày trước khi cấy cây mầm ra vườn ươm, cho tỷ lệ cây sống sau 8 tuần (cây xuất vườn) đạt 91,0%, đường kính cổ rễ bình quân đạt 2,6cm và chiều cao bình quân đạt 23,4cm.
Với dòng Bạch đàn PNCTIV, nôi trƣờng hóa học thích hợp cho quá trình ra rễ là Môi trường ½ MS* có bổ sung 2,5mg/l IBA + 2,0mg/l ABT1 + 1,0mg/l than hoạt tính + 6,0mg/l Agar, điều chỉnh độ pH ở 5,8. Với môi trường hóa học này cho tỷ lệ ra rễ đạt 83,3% %. Chồi đã ra rễ cần (sau 2 tuần từ khi cấy vào môi trường tạo rễ) cần được huấn luyện trong thời gian 15 ngày trước khi cấy cây mầm ra vườn ươm, cho tỷ lệ cây sống sau 8 tuần (cây xuất vườn) đạt 91,0%, đường kính cổ rễ bình quân đạt 2,8cm và chiều cao bình quân đạt 24,5cm.
4. Từ các kết quả thu được, đề tài đã xây dựng được quy trình kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô 2 dòng Bạch đàn PNCT3 và PNCTIV. Quy trình đảm bảo các yêu cầu khoa học đề ra theo thuyết minh đề tài và đơn đặt hang là: hệ số nhân chồi trên 3,0 lần; tỷ lệ chồi hữu hiệu ít nhất 30,0% và tỷ lệ chồi ra rễ ít nhất 75,0%; tỷ lệ cây tiêu chuẩn xuất vườn đạt 80% trở lên
5. Đề tài đã ứng dụng quy trình tạo được để sản xuất cây mầm mô và cây con gồn: Cây mầm mô đã tạo được là 14.700 cây của cả 2 dòng (yêu cầu đề ra là 10.000 cây) và 12.300 cây con đủ tiêu chuẩn trồng rừng (6.300 cây dòng PNCT3 và 6.000 cây dòng PNCTIV) theo yêu cầu là 8.000 cây cho cả 2 dòng (4000 cây mỗi dòng).
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 15827/2019) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Đ.T.V (NASATI)