Bảo tồn và lưu giữ nguồn gen cây nguyên liệu giấy
Cập nhật vào: Thứ sáu - 03/05/2019 16:44
Cỡ chữ
Tài nguyên di truyền là tài sản riêng của mỗi quốc gia đồng thời cũng là tài sản chung của thế giới. Tài nguyên di truyền sinh vật là một bộ phận của giống, là vật liệu ban đầu để lai tạo giống mới và là hạt nhân của đa dạng sinh học nên giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển Nông - Lâm nghiệp của mỗi Quốc gia. Với nhận thức đó, Việt Nam đã sớm xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho việc quản lý bảo tồn nguồn gen. Từ năm 1987 đến nay, mặc dù còn nhiều hạn chế, khoa học và công nghệ đã đóng góp đáng kể trong việc lưu giữ, bảo tồn và khai thác phát triển nguồn gen, đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong giai đoạn tiếp theo, với mục tiêu và các nội dung đã đề ra của Chương trình Quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen, khoa học công nghệ sẽ tiếp tục đóng vai trò then chốt và là động lực để thúc đẩy bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen sinh vật, nguồn tài nguyên vô giá của đất nước.
Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có đa dạng sinh học cao của thế giới với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật và nguồn gen phong phú, đặc hữu. Đến nay Việt Nam đã xác định được khoảng 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước, trong đó thực vật có 13.766 loài 11.373 loài thực vật bậc cao và 2.393 loài thực vật bậc thấp, trong số các loài thực vật thì 10 là các loài cây bản địa, đặc hữu, quý hiếm; nhiều loài có giá trị sự dụng cao dùng làm thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn gia súc, lấy gỗ và nhiều loài cây trồng khác. Do đó, Việt Nam là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học phong phú nhất thế giới, được xếp hạng thứ 16 trên thế giới về sự đa dạng tài nguyên sinh vật, tài nguyên di truyền, là nơi có nguồn gen cây trồng và vật nuôi địa phương đa dạng của thế giới. Tuy vậy, sự đa dạng tài nguyên thực vật nói trên đang bị đe dọa nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh, của việc khai thác bừa bãi và thiếu ý thức, do thiên tai, do thói quen canh tác lạc hậu, do sự gia tăng dân số kèm theo quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ tại khắp các vùng trong cả nước, đặc biệt là sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng mà Việt Nam là 1 trong số 5 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu cũng đặt ra những thách thức và những cơ hội mới. Mức độ biến đổi khí hậu trở nên nghiêm trọng hơn và ngày càng tác động tiêu cực đến tài nguyên di truyền.
Bảo tồn nguồn gen cây rừng nói chung, cây nguyên liệu giấy nói riêng là phương thức lưu giữ các nguồn gen cây rừng phong phú và đa dạng hiện có, làm nền tảng cho công tác giống cây rừng ở nước ta. Nó vừa phục vụ cho công tác giống vừa gắn liền với việc cung cấp giống trước mắt và lâu dài, đồng thời thiết thực phục vụ các chương trình trồng rừng trong nước và trao đổi giống Quốc tế. Mặt khác, các hoạt động về cải thiện giống và cung cấp giống cũng đang làm phong phú thêm hoạt động bảo tồn nguồn gen cây rừng ở nước ta. Việc bảo tồn nguồn gen cây nguyên liệu giấy nhằm duy trì tính đa dạng di truyền cần thiết, tạo lập một nền tảng di truyền đủ lớn phục vụ cho công tác giống trước mắt và lâu dài, góp phần tăng năng suất theo mục tiêu kinh tế và tăng tính chống chịu của chúng với các điều kiện bất lợi là hết sức cần thiết. Trước những vấn đề trên, nhóm nghiên cứu do TS. Nguyễn Duy Trình, Viện Nghiên cứu Cây nguyên liệu giấy đứng đầu đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Bảo tồn và lưu giữ nguồn gen cây nguyên liệu giấy”.
265 giống cây nguyên liệu giấy các loại 100 giống Keo, 149 giống Bạch đàn, 07 giống Thông và 18 loài thuộc họ Tre, Trúc.
- Nhiệm vụ đã đánh giá được sơ bộ 10 giống mới được thu thập thuộc nhiệm vụ bổ sung hàng năm và đánh giá chi tiết các giống đã được trồng bảo tồn và lưu giữ thuộc nhiệm vụ thường xuyên hàng năm.
- Từ kết quả đánh giá, các nguồn gen khẳng định được tính ưu việt về sinh trưởng chủ yếu là Bạch đàn, gồm có: CT4, CTIV, PN10, PN47, CT3 Eu16, GR3, PN7, PN3d, PN46A, E13. Các nguồn gen Bạch đàn này vừa có tỷ lệ sống cao, vừa có hình dáng thân cây thẳng, đẹp, vừa cho sinh trưởng đường kính và chiều cao vượt xa so với các nguồn gen khác trong cùng hiện trường bảo tồn.
- Đã phân tích thành phần hóa học gỗ cho 02 dòng keo lai đã được công nhận giống tiến bộ kỹ thuật KL20 và KLTA3 đều cho thấy hàm lượng xenlulo khá cao KL20 (48.2 %); KLTA3( 49.9%); Lignin KL20 (26.1%); KLTA3 ( 26.9%) là rất phù hợp cho hoạt động sản xuất giấy và bột giấy.
- Đã xây dựng cơ sở dữ liệu cho 275 mẫu giống theo các tiêu chí đánh giá nguồn gen và quản lý, lưu giữ theo quy định.
Nhóm nghiên cứu đề nghị đẩy mạnh đánh giá nguồn gen đang lưu giữ, tập trung cho việc đánh giá chi tiết các nguồn gen một cách toàn diện, từ đó xác định được các nguồn gen có năng suất, chất lượng cao để đưa vào công tác khai thác phát triển nguồn gen. Cần sớm đưa các giống Bạch đàn, Keo có năng suất cao, thành phần hóa học gỗ tương đối thích hợp cho sản xuất giấy, bột giấy vào chương trình khai thác phát triển nguồn gen cây nguyên liệu giấy. Đồng thời, nhóm nghiên cứu mong muốn tạo điều kiện cho phép tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và lưu giữ nguồn gen cây nguyên liệu giấy.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 14764/2018) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
P.T.T (NASATI)
tài nguyên, di truyền, tài sản, quốc gia, thế giới, sinh vật, bộ phận, vật liệu, ban đầu, sinh học, vai trò, quan trọng, chiến lược, phát triển, nông lâm